BICH TRAM

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

195/ BÀI VIẾT VỀ NGƯỜI LÍNH TRƯỜNG SƠN

                 Nguyễn Thị Bích Trâm   

             Baì 1: Cảm nhận về nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.



“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
         Vâng! Một thời Trường Sơn ác liệt đạn bom, một thời Trường Sơn huyền thoại in dấu chân của bao thế hệ cha anh “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao những trang văn viết về người chiến sĩ Trường Sơn nhất là nữ thanh niên xung phong đã khơi gợi trong chúng ta nhiều xúc cảm. Ác liệt mà vẫn bình yên…? Dạn dày mà vẫn rất tinh nhạy? Nữ tính mà vẫn can trường…?  Tất cả được khắc hoạ từ ngòi bút của nhà văn Lê Minh Khuê qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”. Hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong với những vẻ đẹp hồn nhiên vốn có của tuổi trẻ Việt Nam trong thời chống Mỹ đã tỏa sáng lấp lánh. Đẹp nhất là ánh sao xa từ vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của cô thanh niên xung phong Phương Định.
         Những ngôi sao xa xôi là một trong những truyện ngắn đầu tay của Lê Minh Khuê, viết năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc diễn ra ác liệt nhất. Truyện kể về một tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn gồm ba cô gái: Phương Định, Nho và Thao. Họ ở cách xa đơn vị, dưới một cái hang ở chân cao điểm. Nhiệm vụ là quan sát máy bay địch ném bom, đo đất đá, san lấp hố bom, đo tọa độ những trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc vô cùng nguy hiểm, suốt ngày họ phải chạy trên cao điểm và đối mặt với cái chết. Mặc dù vậy, họ vẫn sống hồn nhiên, yêu đời và gắn bó, yêu thương nhau.
         Mặc dầu sống trong hoàn cảnh ác liệt của chiến trường, Phương Định – cô thanh niên xung phong vẫn mang nét đẹp tâm hồn nhạy cảm, hồn nhiên, trong trẻo, giàu mơ mộng, lạc quan.
         “Đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Đó là hiện thực đầy mùi chiến tranh, không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy thần chết luôn rình rập. Con đường mang biết bao thương tích vì bom đạn giặc. Vậy mà Phương Định cùng những người đồng đội của mình ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa ấy, nơi tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm và ác liệt.
         Người đọc không thể không ngỡ ngàng khi cô thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường ấy lại là một là nữ sinh của thủ đô thanh lịch bước vào chiến trường. Thời học sinh – cái thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vô tư sống bên mẹ trong một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh thành kỉ niệm đẹp trong cô. Chiến tranh khốc liệt căng thẳng ư? Mặc! Những hoài niệm về thời học trò thật đáng yêu ấy luôn sống trong cô ngay giữa chiến trường làm tươi mới một tâm hồn ẩn chứa những khát khao.
         Và có lẽ chúng ta ai muốn nhìn xa rồi lại ngắm gần một Phương Định đáng yêu trẻ trung và xinh xắn với “hai bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn” và “đôi mắt nâu nâu dài dài hay nheo lại như chói nắng, hay có cái nhìn xa xăm”. Đó là thiếu nữ có một ngoại hình phảng phất dáng dấp thanh lịch của một thiếu nữ Hà Thành. Nếu nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn thì nhìn vào đôi mắt của Phương Định ta cảm nhận một tâm hồn rất lãng mạn, mơ mộng và cũng rất hồn nhiên.
         Là con gái đấy mà! Phương Định rất nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Biết mình đẹp, cô thích ngắm mình trong gương, có chút kiêu ngầm khi biết mình được các anh pháo thủ và lái xe thăm hỏi. Cô vui và tự hào về điều đó nhưng không hay biểu lộ tình cảm của mình mà thường rỏ ra kín đáo giữa đám đông. Phương Định không săn sóc vồn vã, cô vẫn hay đứng ra xa, khoanh tay trước mặt và nhìn đi nơi khác mỗi khi một đám con gái xúm lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy. Một hành động đó thôi đã làm Phương Định trở nên thật kiêu kì, cái điệu của cô thật đáng yêu và cũng thật phù hợp với một người con gái như vậy.
         Tâm hồn yêu đời lạc quan của cô giữa Trường Sơn đạn lửa thật làm cho người ta càng ngạc nhiên hơn. Sau những giây phút căng thẳng ở cao điểm, xong việc là thở phào chạy vào hàng, là sà ngay vào một thế giới khác – thế giới con gái với những mơ mộng: nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ… Yêu đời lạc quan làm nên “Tiếng hát át tiếng bom” ở cô. Cô mê hát và hát mọi lúc, mọi nơi. Lại còn bịa ra lời mà hát, hát cả khi có sự im lặng không bình thường, “tiếng máy bay trinh sát rè rè”. Phải chăng trong tiếng hát, có ý thức về lý tưởng, có khao khát về quê hương, tình yêu của tuổi trẻ và có cả khát vọng được trở về cuộc sống thanh bình.
         Có lẽ thích nhất là được hòa cùng những cảm xúc trong tâm hồn cô khi cô đón nhận một cơn mưa đá bất ngờ. Không phải là cô gái căng thẳng, hồi hộp tột độ khi phá bom mà là một thiếu nữ hồn nhiên trong sáng với niềm vui con trẻ òa nở, cuống cuồng: “Mưa đá! Cha mẹ ơi! Mưa đá!”.  Thế là những kỷ niệm tuổi thơ ào ạt, trào dâng với hình ảnh thân thương về thành phố, quê hương, về gia đình, về tuổi thơ. “Người mẹ, cái cửa sổ ngôi nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, con đường nhựa sau cơn mưa, những ngọn đèn trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên”. Tất cả vừa rõ ràng, vừa mờ ảo; vừa đồng hiện, vừa vụt hiện trong tâm trí; vừa gần gũi, vừa xa xôi và xoáy mãnh liệt, dữ dội như con mưa đá.         
         Không chỉ mang hành trang từ vẻ đẹp tâm hồn đáng yêu, sức mạnh để cô gái nhỏ bé Hà Nội kia đối mặt với công việc đặc biệt nguy hiểm chính là tinh thần dũng cảm, gan góc vượt lên trên hiểm nguy và tình đồng đội nồng ấm chân thành. Những hiểm nguy nào có sá gì. Bởi mang nặng tình yêu tổ quốc, cô ra đi mà không tiếc tuổi thanh xuân. Rời ghế nhà trường phổ thông, Phương Định xung phong ra mặt trận. Phương Định nghĩ về hoàn cảnh sống nơi đây một cách giản dị và cho là có cái thú riêng: “… đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chảo”. Nhiệm vụ phá bom gian khổ, hi sinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức. Vậy mà cô kể về nó với giọng điệu bình thản, pha sự hóm hỉnh: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Thật là biết cười trên gian khó!                         
         Điều gì đã làm nên sức mạnh bản lĩnh của cô phải chăng bên cạnh nét đẹp của một tâm hồn đáng yêu, đầy chất nữ tính ấy còn là một Phương Định dũng cảm, gan góc vượt lên mọi hiểm nguy. Sau những đợt thả bom của giặc, Định cùng đồng đội chạy lên cao điểm để làm nhiệm vụ. Không gian lúc đó vắng lặng đến phát sợ. Nhưng cô không hề sợ hãi. Cô có cảm giác như các chiến sĩ đang dõi theo mình, vì vậy mà cô cảm thấy an tâm hơn. Cô quyết định không đi khom, bởi một lý do rất đơn giản “Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới.” Cảm giác ấy vừa thể hiện lòng tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm vượt qua mọi hiểm nguy. Đối với cô,       cái chết thì cô có nghĩ đến nhưng lại là “một cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, mà cô quan tâm nhất là liệu bom có nổ hay không, không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai, cô luôn đặt nhiệm vụ của mình lên hàng đầu. Và trong những lúc phá bom như vậy, ta vẫn còn thấy thấp thoáng cái sự nhạy cảm, tinh tế trong cảm xúc của cô, “một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành.”, phải là một người bình tĩnh gan góc mới có được những cảm nhận chân thực như vậy. Chính những lúc đó, ta mới thấy được cái sự dũng cảm đến lạ thường của cô gái.
         Mạnh mẽ kiên cường, liệu tình cảm trong cô có khô khan? Không! Tình  đồng đội dành cho chị Thao và Nho mới ấm áp làm sao? Cô lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho như biết về những chị em ruột thịt. Còn với Nho, cô em út của tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên tay “trông nó nhẹ mát như một que kem trắng”. Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Khi Nho bị thương, cô vỗ về và chăm sóc tận tình: “moi đất, bế Nho đặt lên đùi” “rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than” “tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái ca sắt…”.  Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con đường ra mặt trận. Với cô “những người đẹp nhất, thông minh, cam đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Tình cảm ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để cô hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.          
         Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ nhất chân thực, linh hoạt, cốt truyện đơn giản, tình huống truyện hợp lý và việc sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc, “Những ngôi sao xa xôi” đã ca ngợi vẻ đẹp của những cô gái đã Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng” (Tố Hữu). Mang nét trẻ trung của một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và đầy mơ mộng nhưng lại là một cô thanh niên xung phong dũng cảm, gan dạ, sâu sắc tình đồng đội, Phương Định xứng đáng là đại diện của thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ.
         Những ngôi sao xa xôi”, những con người được ví như những vì sao lấp lánh giữa bầu trời đêm. Một thứ ánh sáng không rực rỡ mà sáng trong, tưởng như xa mà lại rất gần, “xa xôi” là bởi vì phải ngắm nhìn thật kỹ thì mới có thể thấy được những tâm hồn cao đẹp ấy. Ba cô gái thanh niên xung phong đặc biệt là Phương Định, trái tim hồng của cô, “ngôi sao xa xôi” mãi mãi lung linh, toả sáng lấp lánh trên đỉnh cao Trường Sơn, xa xôi mà gần gũi trong lòng yêu thương cảm phục của mọi người, mọi thời đại như lời thơ: 
                Đêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh...”
                            (Khoảng trời hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ)
                                                                      
           Bài 2: Vẻ đẹp người chiến sĩ qua bài thơ tiểu đội xe không kính.  

    Nguyễn Thị Bích Trâm 
             
     Thấm thoắt đã ba mươi hai năm kể từ ngày đất nước thống nhất. Cuộc sống thanh bình, ấm no và hạnh phúc hôm nay đã đánh đổi bằng xương máu của bao thế hệ cha anh. Vẫn còn âm vang đâu đây không khí hào hùng của những trận tuyến chống quân thù.Và hình ảnh một Trường Sơn hùng vĩ mang chí lớn của biết bao người con trung dũng kiên cường lại  như hiện về trong ký ức trong lòng ngưỡng mộ của bao thế hệ. Nhà thơ Tố từng ca ngợi những con người quả cảm ấy
                         Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
                         Mà lòng phơi phới dậy tương lai
         Qủa đúng như thế, một Trường Sơn ác liệt đạn bom, một Trường Sơn đầy chông gai thử thách là nơi để những chàng “Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” làm nên những kỳ tích. Trên những con đường Trường Sơn cheo leo, hiểm trở đầy mưa bom bão đạn, những đoàn xe vận tải lương thực, khí giới vẫn chạy  băng băng phục vụ cho chiến trường Miền Nam.  Điều kỳ diệu ấy có được bởi vẻ đẹp tinh thần, tình cảm của những người chiền sĩ lái xe. Chất thơ trong hiện thực đầy khốc liệt đã được đưa vào thơ từ hồn thơ nhạy cảm của nhà thơ Phạm Tiến Duật qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Không có kính không phải vì xe không có kính
..........................................................
Chỉ cần trong xe có một trái tim.  
        Phải chăng, thực tế ở chiến trường Trường Sơn thời chống Mỹ đã làm nên những chất liệu cho trang thơ đặc sắc. Phạm Tiến Duật đã từng vào bộ đội và là một trong những gương mặt tiêu biểu của đội ngũ các nhà thơ trẻ lúc ấy. Vốn đã từng yêu thơ và làm thơ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, nay lại được trực tiếp sống trong không khí của tiền tuyến, hồn thơ của Phạm Tiến Duật như được tiếp thêm nguồn lực mới. Thành công của bài thơ về tiểu đội xe không kính chính là tác giả đã thể hiện một cách chân thực hình ảnh người lái xe quân sự gắn với hình ảnh độc đáo là những chiếc xe không kính. Phương tiện vật chất thiếu thốn là cơ hội để người chiến sĩ lái xe Trường sơn bộc lộ hết những phẩm chất cao đẹp.
     Dấu ấn chiến trường ác liệt trước hết được thể hiện ngay trong nhan đề bài thơ qua cụm từ “Tiểu đội xe không kính”. Nghe qua tưởng như vô lí. Lẽ thường ,để bảo vệ tính mạng cho con người nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn, xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà! Chuyện xe “không kính” lại là thực tế! Bởi vậy những câu thơ mở đầu có thể coi như là lời giải thích cho sự cố có phần không bình thường ấy :
                     Không có kính, không phải vì xe không có kính
                     Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
       Lời thơ tự nhiên như lời nói thường ngày. Chất thơ của câu thơ này hiện ra trong chính vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Hình ảnh “bom giật ,bom rung” giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của địch. Song những gian khổ khó khăn ấy nào có gì đáng bận tâm. Người lính lái xe vẫn đoàng hoàng, tự tin:
                    Ung dung buồng lái ta ngồi
                    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
        Khi mà sự sống cái chết chỉ cách nhau có gang tấc, khi mà những đợt bắn phá của địch cứ liên tiếp, những quả bom nổ chậm đang rập rình đe doạ thì người ta có thể rất lo âu. Nhưng những người lính Trường Sơn vẫn ung dung nhìn bao quát đất trời. Một tư thế hoàn toàn tự tin, chủ động trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. Đạn bom quân thù không cản được cái thế nhìn thẳng hướng của người chiến sĩ lái xe. Trong cái nhìn mang vẻ phóng khoáng kia, rọi sáng một niềm lạc quan, thể hiện tâm thế của một thời “tiếng hát át tiếng bom”.
       Trên buồng lái của những chiếc xe “đặc biệt” này, họ nhìn thấy những gì?
                     Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
           Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
          Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
          Như sa, như ùa vào buồng lái
 Phía sau những chi tiết tả thực thế giới bên ngoài ập vào tầm lái, câu thơ hiện lên một vẻ đẹp khác : người chiến sĩ vừa tập trung cao độ để vững vàng tay lái, vừa như thả hồn vào những liên tưởng táo bạo đến bất ngờ. Có thể nói hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gây ấn tượng khá sâu sắc. Con đường đã được tình cảm hoá, cái nghĩa vật chất được che mờ đi, để hiện hình một con đường đi từ trái tim và  đến bằng trái tim.
  Trên những nẻo đường ấy người chiến sĩ thật dũng cảm, gan dạ và thành thạo, tài tình mới điều khiển được chiếc xe băng nhanh trên những con đường cheo leo hiểm hóc, trước tác động của gió rồi lại mưa bụi, khó khăn lại nối tiếp khó khăn.
           Không có kính ừ thì có bụi
           Bụi phun tóc trắng như người già
           Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
           Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
        Những gian nan là để thử thách chí làm trai. Người lính sẵn sàng chấp nhận. Điều đáng nói ở đây là mặc dù đã nếm đủ mùi gian khổ, các anh không hề tỏ vẻ bực bội mà còn thể hiện tính ngang tàng thách thức và tràn đầy lạc quan.
                    Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
          Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
        Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn trừu tượng nữa mà được tính bằng những con đường “Lái trăm cây số nữa”. Con đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng mồ hôi, xương máu. Ẩn chứa trong tứ thơ là hình ảnh con người phơi phới tự tin, bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ.
         Những người lái xe anh dũng hiên ngang ấy cũng là những con người rất trẻ trung, vui nhộn.Trước khó khăn do xe không kính gây ra họ vẫn cười vang :  “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.  Chỉ có những con người rất yêu đời, yêu cuộc sống mới có thể cười hết cỡ, cười vui nhộn đến thế, về mặt lấm, về màu trắng ngộ nghĩnh của  “tóc trắng”,“ bụi phun”. Ngay cả cách hút thuốc cũng thể hiện tính chất trẻ trung, tinh nghịch -hút “phì phèo”- cách hút để chơi, hút cho vui. Cái khó khăn “xe không kính” lại được các anh  biến  thành cái thuận lợi : “ Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Từ cái bắt tay ấy, tình cảm người lính càng gắn bó hơn. Xa quê hương đến tận núi rừng Trường sơn để làm nhiệm vụ, phần lớn các anh chưa lập gia đình, các anh tạm gác tình riêng vì việc lớn, nét hồn nhiên phơi phới lại thể hiện qua cách suy nghĩ rất giản dị.
                    Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
          Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
        Tình đồng đội đã tiếp thêm sức mạnh.Và thế là, dù ăn giữa trời, ngủ giữa rừng trên chiếc xe không kính, người chiến sĩ vẫn đầy nhiệt huyết. Những chiếc xe vẫn cứ đi, vẫn băng băng không  kẻ thù nào ngăn cản nổi. Đó là sức trẻ dâng ngùn ngụt từ trái tim rực lửa tình yêu nước, cho nên dẫu chiếc xe cứ dần dần trần trụi bởi phong sương, nắng gió, bởi chiến trận ác liệt trở thành “không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, xe vẫn hành quân :
                     Không có kính, rồi xe không có đèn
           Không có mui xe, thùng xe có xước
           Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
           Chỉ cần trong xe có một trái tim
       Cao đẹp là thế ! chỉ cần có một trái tim, một tấm lòng, một nghị lực, ý chí. những thiếu thốn gian nan, nguy hiểm ,hi sinh nào có là gì. Ý thơ đã cô đọng lại, kết tinh lại vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe Trường sơn chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp. Vẻ đẹp ấy cho ta liên tưởng đến lời của một bài hát : “Ôi! Anh đẹp lắm ! đẹp  hồn nhiên như chân lý Bác Hồ, vì anh có một trái tim, một trái tim biết yêu thương tha thiết đất nước, quê hương. Một trái tim biết căm thù quân xâm lược. Một trái tim rực lửa anh hùng”.
       Đúng như thế, mọi thứ đều không có, đều thiếu thốn nhưng có trái tim là có tất cả: tư thế hiên ngang ,lòng dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn , tinh thần lạc quan, ý chí vững vàng. Dẫu cho những chiếc xe có biến dạng thì người chiến sĩ vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cao cả : Chiến đấu với kẻ thù, vì quê hương đất nước vì lý tưởng cách mạng. Hình ảnh “trái tim” khép lại bài thơ nhưng mở ra một chân dung sống động với những vẻ đẹp của người chiến sĩ ý thức cao trước vận mệnh của đất nước.
            Bài thơ được viết trong những ngày chiến tranh gian khổ ác liệt và hào hùng. Thời đại đã cung cấp hiện thực sôi động quý giá để nhà thơ khắc hoạ những hình ảnh đẹp về những chiến sĩ lái xe Trường Sơn làm xúc động lòng người. Từng câu thơ, từng ý thơ đem đến cho người đọc sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ, kính phục đối với những con người được gọi với cái tên trân trọng, yêu mến, “anh  bộ đội Cụ Hồ” Chính các anh đã làm nên một con đường Trường Sơn huyền thoại, làm nên những trang sử chói lọi cho lịch sử Việt Nam thời chống Mỹ.
       Mùa xuân chiến thắng năm 1975 mang khúc khải hoàn ca của dân tộc vẫn mãi đem sức xuân cho những mùa xuân tiếp nối. Để rồi trong niềm vui xuân mới, chúng ta có quyền  tự hào về một Trưòng Sơn năm xưa, tự hào về những con người mang vẻ đẹp tâm hồn làm nên những bản hùng ca bất diệt đem đến cuộc sống thanh bình, thịnh vượng cho đất nước. Con đường các anh đi ngày ấy trở thành con đường Hồ Chí Minh lịch sử, những chiếc xe lại bon bon mang những chuyến hàng phục vụ mọi người, mọi nhà. Những chuyến xe nối tiếp chuyến xe như chúng ta nối tiếp thế hệ cha anh học tập và sống sao cho xứng đáng với những gì mà người chiến sĩ đã sống và hiến dâng .
    Nào hãy biến niềm vinh hạnh của chúng ta  thành những hoài bão đẹp vì quê hương, đất nước dấu yêu như lời thơ Tố Hữu :
                      Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
                     Vui  gì hơn làm người lính đi đầu
                     Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa.
              Trái tim của những người lính Trường Sơn quả cảm năm xưa sẽ thắp lên trong tim chúng ta ngọn lửa niềm tin và nhiệt huyết để viết tiếp nên những trang sử huyền thoại của một Việt Nam thời đại mới.  

          Bài 3:  Bài thơ Đồng chí - Chính  Hữu


Mộc Nhân  (Tư liệu giáo khoa)

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, hình tượng người nông dân mặc áo lính đã đi vào thơ ca một cách dung dị mà tuyệt đẹp. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cùng với một số bài thơ khác đã mở ra khuynh hướng viết về anh bộ đội bằng cách khai thác cái đẹp và chất thơ từ những cái bình dị nhất của cuộc sống, chiến đấu để làm nên vẻ đẹp của người lính cách mạng.

“Đồng chí” được Chính Hữu  sáng tác vào đầu năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947). Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, cả bài thơ tập trung thể hiện chủ đề tình đồng chí, chủ đề ấy thấm sâu vào từng chi tiết nghệ thuật của tác phẩm và được thể hiện qua ba đoạn của bài thơ.


1. Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ có cấu trúc song hành giới thiệu về sự xuất thân của người lính:
           “Quê hương anh nước mặn đồng chua
                     Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
          Với cách sử dụng một số thành ngữ dân gian, Chính Hữu đã gợi cho ta biết người lính xuất thân từ những người nông dân nghèo. Những người lính cách mạng đến từ những miền quê khác nhau trên khắp đất nước. Kẻ thì ở vùng quê nghèo ven biển nước mặn đồng chua; người thì ở miền trung du khô cằn đất cày lên sỏi đá.  
Từ những người xa lạ, giờ đây họ đã trở nên quen nhau. Nếu ở câu thơ thứ nhất, nhà thơ nói về anh; đến câu thơ thứ hai nói về tôi thì đến câu thơ thứ ba đã khéo dùng từ đôi (đôi người xa lạ) để nói lên tình thân, sự gắn bó chặt chẽ giữa những con người xa lạ ấy.
Mối tình đồng chí của họ bắt đầu hình thành trên cơ sở sự đồng cảm giai cấp xuất thân.

Khi đã trở thành người lính, họ đứng bên nhau trong đội hình:
“Súng bên súng,  đầu sát bên đầu”
Súng bên súng gợi lên sự cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, đầu sát bên đầu vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng nói lên họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, cùng chung chí hướng, chung lí tưởng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Những gian lao thiếu thốn của đời lính cũng được họ cùng nhau chia sẻ:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ ”
Đây là một câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ, thiếu thốn. Những lúc chia ngọt sẻ bùi ấy đã gắn kết họ với nhau thành đôi tri kỉ.
Tri kỉ là đôi bạn thân, hiểu biết nhau. Như vậy là từ những người xa lạ, những chàng trai làng đã trở nên quen nhau trở thành bạn chiến đấu rồi thành  đôi tri kỉ. Mối tình tri kỉ ấy càng thắm thiết hơn và trở nên thiêng liêng, đó là tình Đồng chí .
Chính vì vậy, sau sáu dòng thơ đầu, nhà thơ Chính Hữu đã hạ một dòng thơ đặc biệt chỉ có một từ với hai tiếng và  một  dấu  chấm than :
                              “Đồng chí !”.
Đồng chí vừa là tên gọi của những người lính cùng trong đội ngũ, vừa là tiếng gọi thiêng liêng vang lên như một lời khẳng định giá trị chân thực thiêng liêng của tình đồng chí, nó như một dấu nhấn ngân vang trong bản đàn.
Đó chính là biểu hiện cho  sự kết tinh cao độ của tình bạn, tình người, tình giai cấp. Hai tiếng ấy  như một bản lề khép lại đoạn thơ đầu: sự hình thành tình đồng chí- và mở ra đoạn thơ thứ hai: những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng chí.

2.  Biểu hiện đó là sự thấu hiểu:
“ Ruộng nương anh gởi bạn thân cày
 Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính ”.
Những lúc cận kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Đối với mỗi người thì mảnh ruộng, gian nhà là những thứ thiết thân, gần gũi và gắn bó nhưng giờ đây họ phải gởi lại tất cả để lên đường chiến đấu.
Hai chữ “mặc kệ” nói được sự dứt khoát, mạnh mẽ tuy nhiên họ không phải là những người vô tình, bởi trong tâm hồn của họ luôn nhớ về những kỉ niệm vui buồn, những cuộc hò hẹn, yêu thương của những chàng trai cô gái bên “giếng nước gốc đa”.

Biểu hiện đó là sự chia sẻ những gian lao thiếu thốn của đời lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
 Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”.
Câu thơ gợi tả những trận sốt rét rừng khiến con người run rẩy lúc thì ớn lạnhđến thấu xương, lúc nóng sốt đến vừng trán ướt mồ hôi.
Chữ biết trong câu thơ vừa nói lên sự nếm trải, sự chịu đựng và cả sự thấu hiểu lẫn nhau. Người lính đã vượt qua những gian khổ ấy bằng nghị lực, bằng ý chí và bằng cả sự nâng đỡ của tình đồng chí.
Những gian khổ của đời lính không chỉ là bệnh tật mà còn là :
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày ”
Bằng những chi tiết rất thực được chọn lọc, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc chiến đấu gian khổ, thiếu lương thực, thuốc men, trang phục quân đội thì thiếu thốn giữa cái giá lạnh của núi rừng Việt Bắc.
Nhưng dù trong gian khổ, những người lính vẫn nở miệng cười buốt giá, một nụ cuời thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan.
Tác giả đã xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau trong từng cặp từ ngữ, hình ảnh: anh với tôi…/ áo anh…quần tôi... để diễn tả sự gắn bó, chia sẻ, đồng cảm trong tình đồng chí thắm thiết. Đặc biệt là với hình thức liệt kê, những gian khổ thiếu thốn đó dường như chồng chất; để rồi cảm xúc dồn nén bỗng bừng lên qua câu thơ :“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”.
Bao thiếu thốn về vật chất đã được thay thế bằng tình yêu thương của những người đồng chí, đồng đội. Chỉ bằng một cử chỉ nắm tay nhau mà những người lính như đuợc tiếp thêm sức mạnh tinh thần. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả thành lời mà thể hiện bằng một hành động giản dị để động viên nhau vượt qua gian khổ.

3.     Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc:
          “Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
 Đầu súng trăng treo”.
Đây là một bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ.
Chính Hữu đã gợi lên khung cảnh rừng hoang sương muối - một đêm đông vô cùng lạnh lẽo giữa núi rừng hoang vu. Trong thời gian và không gian đó, người lính vẫn kiên trì đứng cạnh bên nhau để phục kích chờ giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên trên tất cả những khắc nghiệt của gian khổ, thiếu thốn.
Đêm khuya, vầng trăng ở trên trời cao, khi trời về sáng, trăng xuống thấp dần và đến một lúc nào đó có cảm giác như trăng treo lơ lửng trên đầu súng. Hiện thực chiến đấu gian khổ vẫn không làm mất đi tâm hồn lãng mạn, luôn hướng đến cái đẹp của người lính. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo ” được nhận ra vào những thời khắc ấy.
Đây là một tứ thơ đẹp, xuất hiện khá bất ngờ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra nhiều liên tưởng phong phú: lãng mạn và hiện thực tại; thi sĩ và  chiến sĩ… Tất cả các ý nghĩa ấy kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau làm nên vẻ đẹp của người lính cách mạng.
         
          Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, hàm súc, gần gũi với tâm tình người lính kết hợp với những chất liệu văn học dân gian, Chính Hữu đã tạo nên những câu thơ vừa hiện thực vừa mang màu sắc lãng mạn. Đồng chí là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ khép lại nhưng đã để lại trong mỗi chúng ta lòng tự hào và mến phục về anh bộ đội Cụ Hồ. Những con người áo vải, chân đất ấy đã góp phần viết nên những trang sử anh hùng của dân tộc. 

4 nhận xét: