BICH TRAM

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

299/ Con của mẹ

   Đã mấy hôm con không đi nhà  trẻ 
   Ừ đông đã về 
                      cái rét ghét trẻ con 
    Con lại ốm chiều nay con lại sốt 
    Ngực bé nhỏ  phập phồng,hơi thở  thóp thoi  




   Con của mẹ vẫn mãi còn nhỏ nhoi 
   Dẫu  là cả ,là anh  nơi trường  trẻ 
   Con chưa  thể bắt đầu tiếng gọi mẹ    
   Cô chưa dạy  chữ  "đau" con đã  thuộc nằm lòng 

   Hết  thức lại ngồi bế ẳm năm canh 
   Mong con thở đều,  mong con bớt  sốt
   Giá mẹ có thể đau giùm con con hỡi 
    Để con chóng cười, chóng nghịch nay mai 

   Gâu của mẹ không sánh với mặt trời 
    Không là  ánh  trăng ,sao  
   Gâu  là Gâu để mẹ yêu nhiều nhất  
    Để mẹ biết cuộc đời là có thật 
    Có buồn vui,hạnh phúc sẻ chia
    Có  yêu thương và có đợi chờ 
    Có niềm tin 
                         thao thức trong  giấc mơ...  

                         Nguyễn Thị Bích Trâm

    

   


   

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

297/Chiều đông

Em đi 
về nẻo phương anh 
Con đường lạ 
bỗng hóa thành thân thương.

Giong cừơi  ấm áp
còn vương 
Mà  sao lối cũ 
người  thương  xa rồi .




Chiều đông 
gót nhỏ mồ côi 
Không anh 
nỗi nhớ vắt trời 
đợi mong. 

Chiều đông 
dằng dặc nghìn trùng  
Tìm chi lối nhỏ 
                   mênh mông mịt mờ .

 Thanh Ngọc

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

288/ TÌNH ANH TRAO


           Tặng ông xã nhân ngày 20/11

 Em  nhận đủ tình anh trao rồi đó.
Tình anh trao là những buổi tan trường .
Về vội vã cùng em  làm bếp.
Tâm sự  vui buồn, công việc cơ quan.
Bữa cơm trưa ấm áp mặn mà.
Nụ cười hiền, anh tấm tắc khen ngon.

Tình anh trao là những chiều đông.
Tan trường về lo cài then chốt cửa.
Các con ngoan hiếu thảo hiền lành .
Có bàn tay anh chăm bón mỗi ngày.



Tình anh trao đằm thắm mặn nồng .
Một chút giận, chút hờn thoảng qua như cơn gió.
Vỗ về em trong những lúc khó khăn.

Tình của anh mộc mạc giản đơn.
 Em nhận đủ rồi em  chẳng so đo.
 Hạnh phúc lớn dần theo năm tháng.
Trong căn nhà  đầy ắp niềm vui .
 Em  mãi là vợ hiền anh nhỉ .
 Vun trồng cho hạnh phúc nở hoa. 

                                                
 Thu Ba GV trường THCS Nguyễn Hiền

296/ CHU VĂN AN - ĐỨC ĐỘ NHÀ GIÁO

               

 Mộc Nhân - Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11


Bài đăng trên Tạp chí Dạy học ngày  nay tháng 11-2013


     
          I. Tiểu sử:         
Chu Văn An tên thật là Chu An, tên chữ là Linh Triệt, khi về ẩn cư thì xưng hiệu là Tiều Ẩn, sinh tại làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Sử sách không chép rõ ông sinh năm nào, nhưng theo thần tích tại đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm Thành Hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn 1292 và mất năm Canh Tuất 1370. Khi ông mất vua truy tặng tước Công (tước lớn nhất trong năm tước mà người ngoài hoàng tộc có thể được phong dưới thời phong kiến) kèm theo hai chữ Văn Trinh (Văn Trinh Công - vì vậy người đời sau mới gọi ông là Chu Văn An) ban hiệu Khang Tiết Tiên Sinh và được đem vào thờ trong Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử xem ông ngang hàng với các bậc thánh hiền ngày xưa. Đó là một điều hết sức hiếm có. Người dân ở làng quê của ông thì tôn thờ ông làm Thành hoàng. Người ta gọi ông là “Đức thánh Chu”, “Đức Thánh Văn”. Qua đó mới thấy, ngay cả khi đã qua đời, đạo đức của Chu Văn An vẫn tiếp tục sáng ngời.

          Danh sĩ nổi tiếng thế kỷ 19 là Ngô Thế Vinh trong bài văn bia ở đền thờ Chu Văn An đã giải thích hai chữ “Văn Trinh” như sau: “Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chi chính cố dã”, tức: Văn là cái vẻ đẹp bên ngoài của đức, Trinh là sự bền vững bên trong của đức, nghĩa là ngoại mạo và tâm hồn Chu An đều đẹp cả.
          Ông là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần, nhân dân ta khi nói về thầy Chu Văn An, ai cũng một lòng ngưỡng mộ, vì thầy là một bậc hiền nho, một tấm gương tiết tháo, suốt đời không màng lợi danh. Thầy có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo. Nhận thấy tài năng và đức độ của thầy, vua Trần Minh Tông(1314-1329) mời ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, dạy học cho thái tử. Đến đời Dụ Tông - thời kỳ suy sụp nhà Trần - tình hình thế sự thay đổi, vua quan ăn chơi sa đoạ, bọn gian thần tham nhũng, đục khoét dân nghèo ngày một nhiều. Cảm xót trước vận mệnh nước nhà, thầy đã nhiều lần can ngăn và dâng sớ chém 7 nịnh thần nhưng đều bất thành nên cáo quan về dạy học, viết sách cho tới khi mất. Sự nghiệp của thầy con ghi và thờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám. 


         
 II. Thất trảm sớ:
Hơn 600 năm trước, nhà Nho Chu Văn An đã một thời làm rạng danh cho giới sĩ phu, nêu cao khí tiết thanh cao và thể hiện tinh thần chính trực “uy vũ bất năng khuất”. Ngày nay khi nhắc đến thầy Chu Văn An, chúng ta thường liên tưởng tới “Thất trảm sớ” với nội dung tâu chém 7 nịnh thần. Nhà Trần trải qua 12 đời vua: vua đầu tiên Trần Thái Tông (1225), vua cuối cùng là Trần Thiếu Đế (1400) kéo dài được 175 năm. Sau đó vào năm 1400 bị Hồ Quý Ly cướp ngôi. Thời vua Trần Dụ Tông là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần. Năm 1357, sau khi thượng hoàng Minh Tông băng hà, thì vua Dụ Tông được nắm trọn đại quyền (trị vì từ 1341-1369), nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Trong nước, về kinh tế: mất mùa, đói kém, sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân bị đe dọa nghiêm trọng; về xã hội, loạn lạc xảy ra khắp nơi, nông dân bất mãn, nổi dậy chống lại triều đình; về chính trị, vua quan chỉ lo ăn chơi, tranh giành quyền lực, bọn nịnh thần thâu tóm quyền bính, thao túng triều đình. Ngoài nước, nhà Minh uy hiếp, đe dọa nền độc lập của Đại Việt. Thế mà nhà vua chỉ nghe lời xúc xiểm của đám nịnh thần. Chúng mượn danh Hoàng thượng để làm các việc, mà nhìn bề ngoài thiên hạ cứ ngỡ là chúng làm vì Hoàng thượng nhưng kỳ thực là thao túng để đục khoét công quỹ, ăn chơi sa đọa, các khoản chi tiêu cho Hoàng thượng chỉ một phần, còn vào túi chúng tới chín phần, lại còn xúi giục nhà vua buông lơi việc triều chính. Đây cũng chính là những kẻ gây bè phái, đấu đá lẫn nhau, làm mất đi sự đoàn kết trong vương triều Trần – sự đoàn kết đáng quý đã từng giúp nhà Trần 3 lần đánh bại đạo quân hung bạo nhất thế giới vào thế kỉ XIII – quân Nguyên Mông. Triều đình trở nên thối nát.
          Chu An đã nhiều lần can gián vua và cũng là học trò của mình nhưng nhà vua không nghe. Cuối cùng ông đã hiên ngang dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần mà sử sách gọi là “Thất trảm sớ”  để mong cứu vãn nhà Trần. “Thất trảm sớ” của thầy Chu An là tiếng sét giữa trời quang – giáng thẳng xuống đầu những kẻ xu nịnh; là tiếng chuông cảnh tỉnh nhà vua đang sa đà vào cõi u minh; là tiếng gào thét phẫn nộ của kẻ sĩ trước thực trạng bê bối của triều đình; là tiếng kêu đau xót của người trí thức trước tình cảnh lầm than của đám lê dân; là tiếng nói của chính nghĩa can trường, đầy nghĩa khí. Theo nhiều tài liệu thì trong Sớ có đoạn viết: “Để giữ nghiêm phép nước, nối dòng đại thống từ Thái tông cao hoàng đế tới nay, xin bệ hạ cho chém đầu bảy tên gian thần trên, và tịch thu sản nghiệp của chúng, sung quốc khố, để làm gương răn đe kẻ khác".
          Tiếc thay! Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo lời khuyên của thầy Chu Văn An nên vẫn tiếp tục tin dùng đám gian thần; cũng có thể vua hoảng sợ, không đủ quyền lực để ra tay tiêu trừ chúng. Đất nước vẫn đói khổ, loạn lạc. Nhân dân mất niềm tin vào triều đình. Hiểm họa mất nước vẫn lơ lửng trên đầu Đại Việt. Cho đến nay nội dung tờ sớ đó không ai biết, có thể lúc đó bọn  gian thần đã hủy đi để bịt miệng dư luận hoặc ai đó hủy đi để bảo vệ ông cũng nên.
Sau khi “Thất trảm sớ” bị nhà vua từ chối, thầy Chu Văn An buồn bã vì bao nhiêu nhiệt huyết muốn cải tổ triều đình, muốn cứu vãn đất nước, cứu vớt dân đen, cuối cùng đã tan thành mây khói; thầy Chu Văn An đã treo mũ, từ quan, về quê dạy học. Thầy về mà vẫn đau đáu một nỗi niềm yêu nước, thương dân nên không thể nhắm mắt ngủ yên khi giấc mơ cải tổ của mình chưa thành.
          Sớ này ngày nay đã thất lạc nên không biết rõ chính xác tên của 7 tên nịnh thần mà Chu An xin chém. Nhưng qua việc vua Dụ Tông từ chối lời đề nghị của thầy mình là Chu An, cũng đủ thấy thế lực và ảnh hưởng của 7 tên nịnh thần ấy lớn dường nào. “Thất trảm sớ” được người đời sau ca ngợi là“Thất trảm chi sớ nghĩa động càn khôn” nghĩa: Bài sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nghĩa khí động tới trời đất (Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận - Lê Tung, TK XV) danh sĩ Nguyễn Văn Lý (TK XX) có thơ “Thất trảm vô vi tồn quốc luận/ Cô vân tuy viễn tự thân tâm” nghĩa: Thất trảm sớ không được thi hành, cả nước bàn luận/ Đám mây lẻ loi tuy xa vẫn tự có tinh thần trong lòng.
          Chính sử không ghi rõ 7 gian thần mà Chu Văn An ghi trong "Thất trảm sớ" là ai. Theo cuốn "Vương triều sụp đổ", tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ - 2006, thì bảy tên gian thần bị Chu Văn An xin nhà vua xử trảm, gồm:
          1. Hoạn quan chi hậu cục Mai Thọ Đức, kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân. Để nhiều người chết trẻ, chết già vì mòn mỏi trong cung thất; lại bày ra các trò dâm ô trác táng dẫn Hoàng thượng vào con đường vô đạo.
          2. Trâu Canh, viên ngự y phạm tội làm cho Hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi, lại bày trò phục dương cho bề trên khi 15 tuổi. Y đã bắt cóc 21 đứa trẻ khỏe mạnh con nhà lương dân, giết đi lấy mật làm thang cho bài thuốc hồi dương của quan gia. Rồi y bày trò cho quan gia thông dâm với chị ruột mình, nói là phương thuốc chữa trị. Trong khi chữa trị cho quan gia, y lại thông dâm với cung nhân của chính quan gia. Trâu Canh là người Hán, cháu nội Trâu Tôn đi theo quân nhà Nguyên vào xâm lược Đại Việt, năm Ất Dậu (1285) thất trận bị quân Đại Việt bắt, y đã xin hàng, lại xin được cư trú. Nay Trâu Canh lộng hành, dẫn dắt đức vua vào con đường thương luân bại lý.
          3. Bùi Khoan, Chính chưởng phụng ngự. Y bày trò cờ bạc rượu chè dơ dáy ngay trong cung thất, dẫn đức vua vào mê lộ, bê tha như đám dân đen ngu muội.
          4. Văn Hiến hầu can tội gây bè đảng khiến các đại thần chia rẽ, ngờ vực lẫn nhau, làm cho đức vua khó phân biệt người ngay kẻ nịnh.
          5. Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương, xảo trá, dẫn vua vào con đường ăn chơi xa xỉ, tới cạn kiệt quốc khố.
          6. Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu đồng lõa với Nguyễn Thanh Lương tìm đủ mọi cách tăng thu thuế khóa, tăng các sắc thuế từ thượng cổ chưa từng có, để bòn rút của dân, lấy tiền chi vào các cuộc ăn chơi trác táng của hoàng thượng. Kể cả những năm mất mùa đói kém, dân chết đói đầy đường, chúng cũng không tha giảm.
          7. Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự, bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí đã cũ hỏng vẫn không chịu thay thế, để lấy tiền công bỏ túi. Y sao nhãng việc luyện tập canh phòng biên cương phía Bắc, phía Nam gần như bỏ ngỏ. Hiện thời Chiêm Thành đang ráo riết nhòm ngó miền châu Hóa.
          Dù chỉ là huyền sử nhưng với những tên người cụ thể, với những cáo trạng như vậy cũng là một “giải mả thú vị”, thoả mãn lòng dân. Điều quý hơn hết là dân ta đã một lòng ca ngợi và xem thầy như sao Đấu, sao Khuê, Cao Bá Quát cũng từng viết :
          Thất trảm yêu ma phải rợn lòng
          Trời đất soi chung vầng hào khí
          Nước non còn mãi nếp cao phong.
          III. Sự nghiệp giáo dục:        
          Chu An là người chính trực, không màng danh lợi. Ông đỗ Thái học sinh (tức Tiến sĩ) nhưng không ra làm quan mà ở lại quê nhà mở trường dạy học. Về sau Chu Văn An cũng có ra làm quan nhưng ông làm quan trong mục đích là đóng góp sức lực vào sự nghiệp giáo dục đào tạo nước nhà, đào tạo những người có trọng trách quốc gia, như làm thầy dạy các thái tử. Nếu không phải vì mục đích đó thì ông cũng chẳng ra làm quan. 
          Chu Văn An đã nêu lên những tiêu chuẩn về đạo đức nhà giáo, mà cho đến bây giờ những quan điểm này vẫn còn nguyên giá trị. Đó là: "cùng lý" (hiểu phải cho đến nơi đến chốn), "chính tâm" (giữ lòng cho ngay thẳng), "tịch tà"(trừ bỏ thói hư, tật xấu, chống lại tà thuyết) và "cự bế" (cự bế là ngăn ngừa cái dở). Bốn điều ấy đề cập đến những vấn đề về kiến thức, về lương tâm đạo đức, về bản lĩnh của người thầy. Thời đó, mà ông đưa ra vấn đề này có vẻ còn hơi sớm, bởi ở cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, Nho Giáo chỉ trong giai đoạn đang lên, nhưng chưa đến hồi cực thịnh. Chu Văn An đã đi trước thời đại, và chính nhờ điều đó đã giúp ông trở thành người thầy giáo có tính chất tiên phong. Ông có công lớn trong việc truyền bá giáo dục tư tưởng Khổng Giáo ở Việt Nam. Học trò của Chu An lên đến vài ngàn người, xa gần đều biết tiếng. Đến mức mà vua Trần Minh Tông vời ông ra làm Tư nghiệp Quốc tử giám (tức "Hiệu trưởng" trường QTG).
          Sự nghiệp của Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo, khi còn ở quê thì ông mở trường dạy học, khi làm quan Tư Nghiệp Quốc Tử Giám dạy thái tử và đào tạo nhiều học trò thành những người giữ trọng trách quốc gia, khi từ quan lại trở về quê dạy học. Học trò của ông cũng có người làm quan cao như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát giữ đến chức hành khiển (tể tướng). Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, Chu Văn An luôn được xem là biểu tượng của người thầy mẫu mực.
          Chu Văn An là thầy dạy của hai vị hoàng tử mà sau này đều trở thành vua là Trần Hiến Tông (1329 - 1341) và Trần Dụ Tông (1341 - 1369).  Như vậy, Chu Văn An làm Tư nghiệp Quốc tử giám trải ba triều: Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông.      Khi "Thất trảm sớ" không được vua chấp nhận, Chu Văn An lập tức cáo quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều Ẩn, dạy học, viết sách cho tới cuối đời. Bên cạnh việc dạy học để truyền bá đạo Thánh hiền, Chu An còn sáng tác nhiều sách vở trong đó có "Tứ Thư Thuyết Ước", "Tiều Ẩn Thi Tập"  "Quốc Ngữ Thi Tập", nhưng đều bị người thời Minh cướp lấy mang về Tàu cả. Ông còn soạn một cuốn sách thuốc có tên là "Y Học Yếu Giải Tập Chu Di Biên".
          Thời đại Chu An là giai đoạn hậu chiến tranh chống quân ngoại xâm Nguyên-Mông. Sau chiến tranh, thì việc dùng văn trị để định quốc an bang là điều tất yếu. Thế nhưng câu hỏi đặt ra là phải dùng gì đây giữa ba tôn giáo khi ấy là : Nho, Phật, Lão?
          Khi Phật giáo được các vua đầu nhà Trần coi trọng và thịnh hành, thì Nho giáo đóng vai trò thứ yếu. Ban đầu chỉ có nhà chùa là nơi dạy chữ Nho và sách sử. Tuy nhiên, ở thời đại Chu An, Nho học bắt đầu từng bước lớn mạnh. Nhiều nhà Nho và thái học sinh không làm quan, về mở trường dạy sách Nho như trường hợp của Chu An. Hệ thống trường lớp tại các địa phương được hình thành. Đó là những tiền đề quan trọng để Nho Giáo dần tiến lên vai trò độc tôn trong hệ tư tưởng giáo dục và chính trị thời Hậu Lê thế kỷ 15. Và đương nhiên Chu An có công không nhỏ trong công cuộc phát triển Nho Giáo này bởi hệ thống trường lớp của Chu An là nổi tiếng và có đến hàng ngàn học trò, và bởi mấy chục năm lèo lái con tàu giáo dục của quốc gia trên cương vị lãnh đạo Quốc Tử Giám.
          Trước tác Tứ Thư Thuyết Ước của Chu An có thể được xem là một trong những diễn dịch, bình luận và giải thích Nho Giáo sớm nhất của Việt Nam.
          IV. Vạn Thế Sư Biểu
          Các sử gia phong kiến Việt Nam thời hậu Chu An đều không tiếc lời ca tụng đức độ của ông, và luôn xem ông là Biểu tượng mẫu mực của người thầy giáo Việt. Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định về Chu An trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau:
          “Người hiền được dùng ở đời thường lo vua không thi hành điều sở học của mình. Vua thì dùng người hiền mà hay lo người hiền không theo ý muốn của mình. Cho nên, vua tôi gặp nhau, từ xưa đã là rất khó.
          Nho gia nước Việt ta được dùng rất nhiều, nhưng kẻ thì chỉ nghĩ đến công danh, kẻ thì lo làm giàu, kẻ chỉ xu phụ, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, ít ai chịu để tâm đến đạo đức, lo nghĩ việc giúp vua nêu đức tốt để cho dân được nhờ. Tô Hiến Thành thời Lý và Chu Văn Trinh đời Trần có lẽ cũng gần được. Nhưng Hiến Thành gặp được vua sáng nên công danh sự nghiệp được thấy ngay đương thời, còn Chu Văn Trinh đời Trần không gặp được vua anh minh nên chính học của Ông phải đến đời sau mới thấy được.
          Văn Trinh thờ vua thẳng thắn mà can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lý, đào tạo người tài thì công khanh đều ở cửa nhà ông mà ra, tiết tháo của ông cao thượng đến thiên tử cũng không bắt làm bề tôi được. Huống chi, tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há kẻ điêu ngoa lại không thành liêm chính, kẻ yếu hèn lại không biết tự lập hay sao?”.
          Phan Huy Chú - một học giả lừng danh triều Nguyễn ca ngợi Chu An :"Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt ta trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được”.
          Vua Tự Đức trong "Việt Sử tổng vịnh" viết về Chu An như sau:
          Thượng tường sơn đẩu thế gian sư,
          Tâm dự nhân quai nhất khứ trừ.
          Thất trảm sớ thành thiên địa giám,
          Trực thanh bất cộng hữu Trần suy.
          Nghĩa là:
         
 Gian tà đâu để tung hoành,
          Khí cao vằng vặc lưu danh sáng ngời.
          Sớ dâng chứng với đất trời,
          Không đang tâm sống cảnh đời suy vi.
          Đức độ khiến được cả quỷ thần
          Đức độ của Chu An không chỉ được các bậc túc Nho ca ngợi, mà dân gian cũng dành niềm kính ngưỡng. Một trong những minh chứng cho sự kính ngưỡng đó là câu chuyện dân gian mang màu sắc dã sử về sự tích Đầm Mực được sử sách chép lại như sau:
          "Tương truyền khi ông mở trường dạy học, rất đông học trò tìm đến thụ nghiệp. Trong số học trò có một thanh niên, mặt mũi sáng sủa hôm nào cũng đến thật sớm. Ông khen là chăm chỉ nhưng hỏi thì ngập ngừng không nói quê quán ở đâu. Ông cho người đi theo thấy người đó đi đến đầm Đại (nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất nên ngờ là thủy thần.
          Năm đó, trời đại hạn, dân chúng khổ sở lắm. Một hôm, thầy Chu mới mở lời nhờ người học trò nọ làm mưa cứu dân. Người học trò ấy tuân lời thầy mới ra đứng giữa sân, lấy nghiên mực, ngửa mặt lên khấn, lấy bút thấm mực vãi ra bốn phương. Lúc hết mực tung bút và nghiên lên trời. Lập tức, mây đen kéo đến, sấm chớp ầm ầm, trời đổ một trận mưa thật lớn. Người học trò đội mưa đi về, ra đến cửa thì biến mất. Sáng hôm sau, không thấy y trở lại học, Chu An cho người đến đầm Đại tìm thì thấy một con thuồng luồng thật to chết nổi trên mặt nước. Ông thương xót, sai học trò vớt xác mang về mai táng tử tế. Dân làng thấy vậy lập đền thờ, nay vẫn còn. Chỗ nghiên mực ném lên rơi xuống nay thành đầm nước lúc nào cũng đen, gọi là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, sau này là một làng văn học nổi tiếng (quê hương Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhiệm triều Hậu Lê)".            
          Đức độ của vị "Vạn thế sư biểu" thể hiện ở mấy nét chính - những nét này cũng là biểu hiện xuyên suốt mọi quan điểm, tư tưởng trong cuộc đời và sự nghiệp giúp nước giúp đời của ông, đó là:
          1. Là một người thầy rất giỏi (cùng lý):  Ông giỏi nên ông mới dạy được các lớp học trò từ bậc quyền quý nhất như thái tử đến những người bình thường ở làng quê. Đặc biệt, ở trường làng, ông có hàng ngàn môn sinh. Nức tiếng đến tận triều đình. Thậm chí đến thủy thần cũng tìm đến học. Câu chuyện quỷ thần chỉ là chuyện dã sử, nhưng qua đó cho thấy rằng ai cũng muốn đến học với thầy Chu Văn An. Ông là nhà giáo đầu tiên của nước Đại Việt có nhiều học trò giỏi. Từ đó tạo điều kiện cho cái học Khổng-Mạnh dần dần chiếm vị trí độc tôn trong nền giáo dục Đại Việt.
          2. Là người thầy nghiêm nghị và mẫu mực (chính tâm): Học trò của ông có người làm quan to, như Phạm Sư Mạnh hay Lê Quát làm đến tể tướng, thế mà khi khi đến với thầy Chu Văn An các ông này vẫn phải khép nép và thậm chí có khi còn được nhắc nhở, dạy bảo những gì mà thầy Chu Văn An thấy cần phải nhắc nhở học trò. 
          3. Là một thầy giáo có nhân phẩm trong sạch và tiết tháo (tịch tà  cự bế): Thấy quyền thần làm điều trái đạo thì ông can gián và viết thất trảm sớ xin chém bảy tên nịnh thần. Vua không nghe thì ông lập tức từ quan chứ không màng chi công danh lợi lộc. Ông từ quan về quê dạy học, dạy dân, làm thuốc, viết sách… Chu Văn An làm như vậy là để giữ nguyên cái đức sáng ngời, làm cho đạo học được thâm sâu hơn ở chính ông và những người được ông tiếp tục đào luyện. Chính phẩm chất thanh cao tuyệt vời ấy mà ông đã được người đương thời và đời sau ca ngợi, tôn là “Vạn thế sư biểu”. 
          Sau này nhiều người có cống hiến rất lớn lao, cũng là bậc tôn sư đạo cao đức trọng, nhân cách thanh khiết, thuần nhã, khí phách, chính trực, kiên cường nhưng như Chu Văn An thì không ai có thể sánh. Ông là một người thầy mẫu mực cho nền “lương sư hưng quốc” Đại Việt. Lịch sử giáo dục Việt Nam từ xưa đến nay vẫn một niềm tôn kính đối với Chu Văn An, đặt ông ở địa cao quý nhất, khả kính nhất, người đứng đầu các bậc nhà giáo danh nhân đất Việt từ ngàn xưa.
          Dù nền giáo dục của thời thầy Chu Văn An và thời đại ngày nay là hoàn toàn khác nhưng đức độ nhân cách ông vẫn còn những giá trị quý giá để thế hệ nhà giáo hôm nay tự hào, tôn vinh và noi gương.
                             (Viết nhân kỉ niệm ngày Nhà giáo VN 20/ 11/ 2013)



295/ NGƯỜI THẦY CỦA LÀNG TÔI

Nguyễn Tấn Ái
           
Lớp học bình dân học vụ đã làm nên cái tên một người thầy giáo, xóm làng trân trọng gọi: giáo Tân.
            1975, tháng tư, cả nước thống nhất. Độc lập rồi, hết đau thương mà còn rất đỗi tang thương: ruộng đồng hoang hóa, gia đình li tán côi cút từ hai phía, cái đói đang rình rập…Nửa nước như con đại bàng rũ cánh đứng dậy từ tro tàn hãy còn nghi ngút khói, dựng nhà, vỡ hoang…Ngày làm tối họp. Không họp sao hiểu được tinh thần chủ trương mới, mà quá mới, của Đảng và nhà nước đối với những người dân miền Trung vừa lóp ngóp từ khu tị nạn trở về. Đụng đến cái họp mới phát hiện ra một lỗ hổng lớn trong dân: thiếu chữ. Họ không đọc được sách báo chỉ thị, không hiểu mô tê, không biết cộng trừ có nhớ! Hóa ra mấy mươi năm hết cách mạng rồi quốc gia, hết quốc gia rồi cách mạng, người dân quê cứ ngả nghiêng từ trụ bám sang khu dồn, từ khu dồn về trụ bám, cố bám lấy cái sống đã là may, chuyện chữ nghĩa truyền thống mấy mươi năm gặp binh lửa chiến tranh như đã thiêu rụi rồi. Vậy là làm lại. Một phong trào bình dân học vụ cấp thời dấy lên, tự giác và tự phát. Cả làng gom lại được mấy thầy giáo già đã hết khí lực, vài vị tú tài bán, gia tài trí thức của cả làng xã thật còm cỏi.
            Những đêm bình dân học vụ  thật nức lòng, ê a tiếng học bài trên bờ ruộng, trên nương rẫy, cứ như cả làng hóa trẻ thơ. Lòng người cũng hóa trẻ thơ, phơi phới, quên cái nhọc, cái đói, trong câu chuyện phiếm giờ nghỉ bao giờ cũng là những ông giáo bình dân, dần quy tụ về một cái tên: Giáo Tân. Giáo Tân bao giờ cũng đúng giờ như cái kim đồng hồ. Giáo Tân nghiêm như cây thước kẻ. Giáo Tân kẻ vở cho cụ Hóa, cầm tay con Tình tập viết, cấm thằng Hoàng còn liếc gái thì đừng bước vào lớp học… Nghiêm vậy mà không hiểu sao cả làng đều thích. Suốt hai năm làm người thầy giáo không ngạch bậc, chiến công là cả làng được ủy ban xã tuyên dương thành tích xóa mù.  Giáo Tân được tổ bình dân cử nhận giấy khen của xã . Xong vụ, người thầy ấy lại lui cui về làm một lão nông lấm láp song đến tận bây giờ cái danh hiệu ông giáo trót mang vác theo thời vụ của anh vẫn được cả làng trân trọng nhắc nhỏm. Tôi thật ngưỡng mộ nên đến tận bây giờ vẫn không nguôi tò mò về con người kì lạ ấy.


            Ông giáo ấy cũng đặc biệt quý tôi, người thầy duy nhất của làng đã nhiều phen đem chuông đi đánh xứ người, vậy nên mỗi khi tôi lân la gợi chuyện, anh thường vui vẻ tâm tình như bè bạn dù khoảng cách tuổi tác của tôi với anh cũng gần một thế hệ. Càng lúc tôi càng hiểu ra điều làm nên phong cách người thầy chân quê ấy là một khát vọng tri thức cứ cháy không nguôi.  Trên tấm vách ván nhà anh thường chọn lọc vài câu ngạn ngữ bằng tiếng anh làm tôi tò mò tợn, con người mở vách cửa đi ra rồi khi về lại khép vách lại ấy quyết không lòe đời bằng tân học. Lò dò tôi đọc:
            Great mind think alike
            Think before you speak
            God is love
Hỏi thì được biết anh sợ quên thứ vốn liếng tiếng anh ít ỏi hồi còn đi học nên tự ôn đó thôi. Để làm gì? Câu trả lời của anh thật bất ngờ: Để tự nhắc nhở mình là người có học! Chao ôi, tôi chợt giật mình, liệu cái ý thức căn bản ấy đến nay mấy phần trăm giới trí thức còn ý thức nhỉ?Tôi học ở anh sự chín chắn về tri thức, từ hồi còn là sinh viên, đôi khi gần gũi, tôi cũng ba hoa nhiều lắm. Như có lần tôi khẳng định bác Hoàng Quý viết Cô Láng Giềng để tặng người yêu cũ khi đi kháng chiến, 1954 hòa bình lập lại, đoàn tụ với người xưa, nhạc sĩ nói bài hát không dành tặng cho mình nữa mà dành tặng cho những đôi lứa dang dỡ!!! Anh lặng nghe, không bình luận gì. Một thời gian sau anh cho tôi mượn quyển nhạc tiền chiến đã cũ vàng mà anh còn cất giữ. Lật từng trang sách, tôi đọc được dòng chữ đã gạch chân bằng bút đỏ: Nhạc sĩ Hoàng Quý mất năm 1946! Mới biết ông Hoàng Quý mà mình tóm được ở cửa miệng mấy chàng sinh viên trường nhạc là hàng dỏm. Rồi càng già tuổi đời tôi càng thích gần gũi anh hơn, mỗi khi đàm luận về cầm kì thi họa, về cuộc sống xã hội, bao giờ trong anh cũng là một tri thức chắc lọc và chắc chắn. Tôi hiểu vì sao khi làm thầy, anh được cả làng mến yêu đến thế.
Tôi thích cách sống ngăn nắp, thư thả, cẩn trọng của anh. Tôi thì không thế, cứ tất bật tới tấp những dự định mà có đến quá nửa là hoang phế, có lúc cuống cả người lên vì những tự hối thúc không đâu. Tôi tìm ở anh một lời khuyên, một quan niệm. Anh tĩnh tại: Em à, cái đích cuối cùng của mỗi người đều đã định sẵn, vội vã hãy thư thới đều để đi đến cái chết. Vậy mà lắm người cứ cuống cuồng chạy đến một cái đích không mong muốn. Vậy nên với anh sống là sắp xếp đời mình ngăn nắp để về đích gọn gàng mà thanh thản nhất. Câu chuyện với anh đã sáng ra trong tôi bao nhiêu điều, hình như đâu tôi đã loanh quanh hoài, đã tiệm ngộ để giờ nên đốn ngộ. Tôi yêu mến anh, yêu mến thầy giáo làng ấy, có lẽ đây là bài học mà anh sở đắc nhất, và chỉ chân truyền cho những học trò mà anh cho rằng có tư chất nhất.
Nói về anh, tôi chợt nhớ một tứ thơ, của ai thì cũng đã quên rồi:
            Về trời một nẻo nôn chi
            Gã già thư thái vừa đi vừa thiền!
NTA
           



294/ MÙA CHO EM




  Mến tặng  học sinh các lớp chất lượng cao Nguyễn Hiền

Học sinh lớp 81 -THCS  Nguyễn Hiền đang học giờ Ngữ văn 
  
Còn nhớ  mùa thu  nào   
  em đến trường - con đường
                           gập ghềnh rẫy, đồng,  đồi,  suối  
 mỗi ngày - trang vở
                             nặng trĩu lúa khoai, gà,vịt.
  cái chữ  em
                       khô cằn trong nắng  gió
                       hắt  hiu  lạnh  trở mùa
                       gồng mình đêm  giông  bão …



                   ***
  Mùa thu mới
                     cho em
                     nâng niu cái chữ  xinh tròn  
                     nâng niu  điểm hồng  tươi thắm
                      nâng niu  chân trời em vẽ
   ngày mỗi   ngày nâng niu.  
  
                   ***

    Em ơi
    đất quê  mình vẫn gập ghềnh rẫy,đồng,  đồi, suối 
    đôi vai mẹ vẫn nặng trĩu lúa khoai, gà, vịt
    lời ru cha cháy nắng gió
                         chồng chềnh bão giông ....

                     ***

         Mùa thu chờ ….
                          mùa xuân  
         Mỗi ngày cho em
         chiều đông  giấu trong đêm
         chờ  em...
                 cánh diều  căng gió  mùa xanh.         
          
              
                                                 Nguyễn Thị Bích Trâm
         

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

293/ THẦY ƠI

            Huỳnh Thị Hồng Vy giáo viên trường THCS Nguyễn Hiền Phú Ninh                                 

Thưa thầy!
Hôm nay con đã thành cô giáo
Ngày 20 được nhận lắm những hoa
Học trò nhỏ quê nghèo toàn hoa dại
Nhưng con vui như đứa trẻ được quà.

Ngày 20!
Con nhớ thầy thưở ấy
Bài học nào con mãi khắc ghi
“Đường đời lắm thăng trầm và lầm lỗi..
Lỡ sa chân có gặp lại chính mình?”



Con đã lớn trước lời thầy cao lộng
Có lúc nào đã lỡ bước sa chân
Lời thầy đó và dáng thầy bé nhỏ
Lại soi đường cho con bước hôm nay

Ngày 20!
Bên con, học trò và hoa dại
Và bên thầy – giờ này còn có ai?
Con đi xa chẳng về thăm thầy cũ
Để cha già…
                    Lặng lẽ…….

                                         Tóc pha sương….