Nó thường bắt chước anh giáo tuồng để tự vỗ ngực mình: “Như
ta đây là thằng Ổi Ghẻ. Ổi sẻ ổi trâu mỗi người tự biết. Nhưng là ổi thiệt, dù
ghẻ dù sâu. Quỷ thần ở đâu, xin về chứng giám…”. Nó cười hề hà sau mỗi lần tự
giới thiệu như thế, rồi bỗng dưng chùng mặt lạnh: “Là nói vui, làm gì có quỷ
thần. Mà có quỷ thần đi nữa cũng phải sống chung với nhau như cứt lộn lên đầu
con tôm sú”.
Nó nói, do giận thần linh mà nó quay lại chơi với quỷ
sứ. Nói như thơ ai đó thì “Từ đạo băng ra giữa đời/ Lạnh tanh không nói nửa lời
là ta… ”. Cơ bản vì làm thằng lương thiện lâu quá rồi thấy không được chi, ngán
ngẩm lắm nó mới thử làm kẻ bất lương. Kẻ bất lương không thích đi theo đường
mòn lối sẵn vì ghét tiếng chó sủa. Với nó, tiếng chó sủa còn đáng sợ hơn vạn
hùng binh. Một hôm, đi ve gái qua một khu nghĩa địa, xong đến một cánh rừng
vắng, hắn gặp một con chó to, răng nanh nhọn, từ trong bụi rậm nhảy phóc ra tấn
đường. Nó phanh xe cái kít, nhơn thần lạnh toát. Con chó lại nhảy lên yên xe
đạp của nó, chõi mõm về phía trước. Nó chỉ nghe mùi chó mà không chạm được vào
chó.
Sau ba mươi giây thất kinh, nó dừng xe, bước xuống, bật chân
chống, nhìn thẳng vào mặt chó:
-Mày là thần linh hay ma quỷ? Có là thần hay quỷ cũng không
được chơi ba cái trò tồi bại này nghe chưa? Việc gì mày cứ nói thẳng ra xem,
Tao có đi ăn cắp ăn trộm ai đâu mà dở trò rung cây nhát khỉ?
Con chó biến mất, chẳng hiểu vì chán hay sợ nó. Về kể
lại chuyện này với bạn nó, thằng bạn trước còn rùng mình, sau lại cười ha hả,
rồi đọc câu thơ hai đứa thường dọa nhau hồi còn con nít: “Tau đi đường ni có
bông có hoa/ Mi đi đường nớ có ma tấn đường”. Số là tối hôm đó, dưới trăng mười
bốn đẹp tinh khôi, hai thằng cùng đi ve gái ở xóm Đông, nhưng mỗi thằng chọn
một con đường riêng.
Người làng lại liên tưởng đến một chuyện trước đó về nó, hồi
mới mười một tuổi theo bà cô ruột đi xem bói. Tiếng đồn ông thầy bói là người
quá khứ tương lai nắm chắc trong lòng bàn tay, chỉ tính khí vui buồn đậu bay
hơi thất thường. Ai chơi xỏ nhờ xem bộ giò gà mái, hoặc có vợ rồi mà nói chưa
để thử ông là bị ông chửi cho một trận như bằm mắm, không chỗ chừa để vuốt mặt.
Có khi nhân danh thần linh ông bắt đứa ngạo mạn phải bò bằng hai tay hai chân
như con chó từ trong nhà ra sân rồi mới lên xe đạp, xe máy chạy re không dám
ngoảnh lại.
Chờ gần hết buổi sáng nắng nóng toát mồ hôi hột, nó mới
được ông thầy bói gọi vào gieo quẻ. Quẻ phán rằng cha mẹ nó hưởng được phúc đức
từ nhiều đời tổ tiên nên trường thọ, giàu sang, con cháu thành đạt…. Mới nói
tới đó nó đã đứng dậy vét hết dĩa tiền công đức nhét vô túi rồi quay lưng bỏ
về: “Ông nói sai, tui mồ côi cha mẹ từ hồi mới bốn tuổi”. Chưa đã, ra khỏi cửa
nó còn xua tay bảo mọi người đang ngồi chờ chật sân: Về, về hết đi bà con ơi,
thằng thầy bói này đểu lắm, nó lường gạt bà con đấy!
Chuyện là vậy, như cái sẩy. Nhưng từ cái sẩy đã nẩy ra nhiều cái ung, người ta
viện dẫn đủ thứ phụ đề phụ bản để giải thích cho những hành vi, sự việc có liên
quan đến nó. Không biết khen hay chê cái tính ngang bướng bất cần của nó, ai đó
đã phán câu nói dân gian hết cỡ bình luận: “Thần linh cũng kinh đứa ngộ”. Người
ta lý giải, thằng này thuộc loại trời đánh trật búa, ma chê quỷ sầu đây. Trên
trời dưới đất nó có ngán chi ai. Thôi thì tránh xa nó ra, như tránh con trâu
điên là tốt hơn. Thấy nó lang thang đủ đường, làm đủ nghề mà vẫn cứ là thằng Ổi
Ghẻ khùng khùng điên điên, giàu không giàu nghèo không nghèo, người ta lại cho
rằng nó bị ma ám. Mà ở đời, cái thứ bị ma ám thì có ngóc đầu dậy chi nổi. Nói
chung là nghiệp chướng, cuối cùng rồi không chết thành ma thắt cổ cũng là ma cù
bơ cù bất dọc đường xó chợ.
Nhưng người đời chưa kịp tránh xa nó thì nó đã bỏ làng ra đi sau cái đêm gây
lộn với quỷ thần dưới ánh trăng mười bốn trinh nguyên. Hồn xác chưa kịp tỉnh,
vợ chưa kịp cưới và cái tủ thờ cha mẹ chưa kịp đóng. Người thân nó kể rằng, nó
đi như có ma đuổi, quỷ dẫn đường, chả thèm thưa hỏi với ai lời nào. Mới gà gáy
đầu đã thấy nó một mình băng qua khu rừng ông Phi thay vì men theo đường chính
để ra tỉnh lộ. Bó đuốc bã mía quơ lập lòe trong đêm cuối tháng. Không có ai ở
đó để níu áo nó lại, hay chí ít cũng nhỏ được một vài giọt nước mắt bịn rịn.
Không có con chó nào ở đó để đuổi theo bóng nó và những đốm tàn đuốc bay
như bóng ma trơi.
Sáng hôm sau, thấy con bồ nó ở xóm Đông ngồi khóc sưng húp cặp mắt dao cau một
mí. Vừa khóc ả vừa kể, cũng tại tui, tại tui ảnh mới bỏ nhà ra đi. Thương chi
cho lắm cắn nhau đau trời đất ơi! Xưa nay ảnh vẫn là người tốt, có phải bạc
tình bạc nghĩa chi mô. Ờ, mà phần cũng tại cha mẹ tui. Tại ảnh nữa. Ôi trời,
người chi đâu, cứ ưa phá phách cõi âm. Biết tính cha mẹ tui hết lòng sùng bái
quỹ thần mà vuốt mặt không chịu nể mũi một chút cho êm chuyện. Ôi trời, người
chi đâu, khuyên hoài không chịu nghe, cứ im im lì lì như hến.
Chẳng biết những lời khống chỉ cho một đời người có ít nhiều
linh ứng vận vào số mệnh thằng Ổi Ghẻ hay không? Người làng Thượng đi làm ăn
trên Tây Nguyên, trong Nam đều
kể giống nhau về nó. Thỉnh thoảng vẫn gặp nó, gặp hôm nay hôm sau đã thấy nó
biến đâu mất tiêu. Cái túi xách bằng vải ca-ki lè kè lúc mang lúc xách đã bạc
màu, hỏng phéc-mơ-tuya. Nó đi tìm cái thứ gì mà ngày đêm băng đèo, lội suối dật
dờ dật dưởng như thằng mộng du. Dáng dấp quỷ ám trải bóng dài ngoẵng, tong teo
trên những ngóc ngách đời người buồn thiu. Người khẳng định nó đi nghiên cứu
phong thủy thì dựa vào cuốn kinh dịch luôn nằm trong túi xách. Người đoan chắc
nó đi tìm lại tình yêu đã mất thì chỉ vào cái xác không hồn tiều tụy như ma của
nó. Điều chung là họ kể về nó như sự minh họa cho nghiệp chướng bị quỷ thần
trừng phạt.
Vậy mà, thình lình ba năm sau nó trở về làng, dẫn theo cô gái
xinh đẹp nói giọng miền Namngọt thanh như múi bưởi năm roi. Chiếc túi xách
cũ rích, mái tóc dài và bộ râu lười cạo biến mất. Thay vào đó có bàn tay con
gái trắng thơm như trái chôm chôm bóc vỏ để cầm, có cái kính cận để làm duyên
và chiếc áo ca-rô dài tay che kín hình con vật cầm tinh tuổi Dần được xăm ở
cánh tay phải. Những vết đen lỗ chỗ trên da mặt một thời làm nên biệt danh Ổi
Ghẻ giờ hình như cũng đã lặn bớt nỗi nhọc nhằn.
Về làng, việc nó làm đầu tiên là đóng một cái tủ thờ để hương
khói cha mẹ, thay cho chiếc bàn gỗ tạp què một chân phải kê nhờ vào cục đá tán.
Nó nói, việc nhỏ như con kiến mà nửa đời người lo chưa nổi, xấu hổ quá. Mộ bà
nội nó vôi vửa nát nhừ, lở móng chỗ này, sụt đá chỗ kia cũng được tu sửa lại
đường hoàng. Vợ chồng nó cũng chung sức giẫy cỏ, sửa sang mảnh vườn ông nội để
lại ra bờ, ra góc dễ nhìn hơn. Thấy vợ nó hở một mảng sườn trắng bóc đứng cào
cỏ, có đứa ngứa miệng đã hát khẽ: “Em xinh tươi trong chiếc áo bà ba… Nói sao
cho vừa lòng/ Nói sao cho vừa thương”. Còn thấy nó đứng chống cuốc nhìn đám cỏ
khô cháy thơm mùi thuốc Bắc, dân làng Thượng cười cười với nhau rằng, ôi, cái
thằng Ổi Ghẻ đã phục thiện thật sự rồi. Tuy là mừng cho nó, cho làng, nhưng một
vài người vẫn chưa tin rằng con ngựa chứng đã quên đường cũ.
Xã đang trống một chân thu thuế nông nghiệp do lão Hoạt phụ
trách mảng này bị chết bất đắc kỳ tử vì một tai nạn giao thông. Tiền lương ít,
lại ngại dễ bị mang tai tiếng, việc “làm dâu trăm họ” này chẳng ai chịu nhận
thế chân ông Hoạt. Cuối cùng thì xã giao cho nó và nó đã vui vẻ nhận lời. Vậy
là vợ đẹp, nhà cửa, công việc… đều đã ổn định đâu vào đó trong ngoài đẹp mặt,
thằng Ổi Ghẻ dường như cũng không muốn gây sự với quỷ thần nữa. Chỉ tiếc nó vẫn
cứ nghèo khó quanh năm và chưa có được một đứa con để nối dõi tông đường. Về
cái sự nghèo, có người cho rằng vợ nó đã quen với cách sống của người
phương Nam, được đồng nào xào sạch đồng đó. Mà nó thì quá cưng chiều vợ
nên trắng tay. Còn về nạn không con, nhiều người vẫn khư khư là do trời đất
không chịu buông tha cho đứa dám buôn thần bán thánh. Nó xấp tay, gục gục đầu
nói với mọi người: “Tui lạy các ngài, đừng có đem chuyện xưa làm rối chuyện
nay”.
Một hôm, nhân có thần nhập xác đâu bên xã láng giềng, nghe
nói tài giỏi lắm. Người gần xa nườm nượp dẫn nhau tới để xin được nghe thần dạy
bảo. Với tư cách là thằng bạn giúp nó về hồ sơ thu thuế (nó thu thì giỏi nhưng
không rành việc lập sổ sách báo cáo), nó rủ tôi cùng đi gặp vị thần “nói như
thấy” ấy để hỏi cho ra cái lẽ đời vô sinh. Đối thoại giữa nó với thần linh dài
dòng lắm, có đến vài tiếng đồng hồ nên tôi nhớ không hết. Chỉ những ý này thì
dù cố quên tôi cũng quên không nổi: “Tôi bị ông bà, cha mẹ quở trách ư? Sao lạ
vậy? Tôi đã làm gì ngoài thành tâm muốn cho việc âm dương trong ngoài ấm êm,
hòa thuận và đẹp mặt với thiên hạ. Ông bà, cha mẹ tôi hồi còn sống cũng thương
tôi lắm. Hà cớ gì lại đi quở trách con cháu? Vả lại, con cháu mà bị đày đọa
trầm trầy cả đời thì cha ông có vui nổi không? Mà người âm các ngài cũng lạ.
Người dương chúng tôi đôi khi vì hẹp lòng nhỏ tính mà trách nhau những chuyện
vụn vặt, còn người âm vô lẽ cũng không thể độ lượng để cầm tay con cháu mà chỉ
ra điều hay lẽ phải hay sao?”.
Tôi chưa lần nào được chứng kiến cuộc đối thoại âm dương kéo
dài thú vị như hôm đó. Không khôn vặt hay phô trương, không ném đá giấu
tay, không đập bàn lớn tiếng, không lấy uy thần để bắt nạt người trần cô thế.
Trí tuệ, đằm thắm và lịch duyệt. Vậy mà cái xác dường như đã toát mồ hôi hột,
mệt lả người, và cuối cùng là…cứng lưỡi.
Chỉ có tôi biết và kể lại chuyện trên đây cho người làng
Thượng nghe. Còn chuyện này thì sống để bụng, chết mang theo, dù vợ chồng nó
không còn hộ khẩu ở làng nữa. Và cũng chẳng biết bây giờ họ sống chết ra sao.
Có một lần đi thâu thuế ban đêm về, vợ chồng nó cãi nhau dữ lắm. Vợ nó khăng
khăng là nó có hẹn hò với con mụ nào chứ xưa nay đời nhà ai lại đi thâu thuế
vào ban đêm bao giờ. “Mụ không hiểu chi cả, ở nông thôn ban ngày nông dân người
ta ra đồng, lên rừng hết, lấy đâu ra mà thâu. Muốn có kết quả thì phải đi ban
đêm, đi buổi trưa, chứ mụ bảo phải làm sao đây”. Nó càng cố giải thích, chuyện
cãi nhau càng bốc lửa ngùn ngụt. Con vợ nó cứ một hai không chịu tin nó.
Nhưng đó chỉ là cú đổ vỡ dọn đường. Chỉ đến cái lần nó
thú nhận với vợ là có cho một mụ đàn bà góa khó khăn tạm mượn tiền để nộp thuế
cho kịp kỳ thì giọt nước mới thật sự tràn ly. Con vợ trắng trẻo, có giọng nói
ngọt thanh của nó mắng xối xả rồi bỏ nhà ra đi: “Mượn mọ gì, có mà đưa tiền cho
mấy con đĩ chó đó ăn…”. Câu nói vuốt đuôi thay cho lời từ biệt của xóm làng đối
với vợ nó nghiệt ngã như muối gừng rải đầy đường đi: “Ba cái thứ gái quen tiêu
xài vô tổ chức ấy mà, còn tiền thì còn đổ gạo nấu chung, hết tiền là bỏ đi”.
Vợ nó ra đi tháng trước, tháng sau nó cũng mất tích. Nó chỉ
kịp nói với tôi, lần này Kinh Kha một đi không trở lại nữa đâu, đất Tần bất
trắc lắm. Tao đã tính sai con bài chủ rồi mày ạ. Ở đời, không phải lúc nào cũng
sống chủ quan với lòng tốt và sự trung thực của mình được đâu.
Hơn một năm sau, ở làng Thượng xuất hiện bài vè về Ôi Ghẻ, trong
đó có đoạn viết: “Ổi Ghẻ, ổi sẻ hay trâu?/ Lấm tấm quanh đầu những chấm ruồi
đen/ Ổi Ghẻ bị trời đất ghen/ Ngọt lòng xanh vỏ vẫn đen nốt ruồi…”.
Tiêu
Đình
(Hội VHNT Quảng Nam. Đt:
0908545656)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét