BÀI 12. VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM
Đọc
câu chuyện về vị quan tòa công tâm để trả lời các câu hỏi liên quan.
VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM
Vị vua Algeria tên là
Bauakas muốn tìm hiểu xem có đúng là trong đất nước
của ông có một vị quan tòa có khả năng tìm ra sự thật rất nhanh và không có tên
lừa đảo nào qua mặt được như ông đã nghe kể hay không. Bauakas cải trang thành thương nhân và lên ngựa tới thành
phố nơi quan tòa sống.
Trên
đường vào thành phố, một người tàn tật lại gần và cầu xin nhà vua bố thí.
Bauakas cho anh ta tiền và định đi tiếp thì anh ta túm lấy quần áo của ông.
“Anh
muốn gì nữa?” nhà vua hỏi. “Chẳng lẽ tôi chưa cho anh tiền sao?”
“Ông đã
bố thí cho tôi rồi,” người tàn tật nói, “Giờ ông hãy ban cho tôi một ân huệ.
Xin cho tôi quá giang một đoạn đường vào quảng trường thành phố, nếu không lũ
ngựa và lạc đà sẽ giẫm đạp tôi.”
Bauakas
cho người tàn tật ngồi phía sau và đưa anh ta vào quảng trường thành phố. Tới
đây, ông dừng ngựa nhưng người tàn tật không xuống.
“Chúng
ta đã đến quảng trường, tại sao anh không xuống?” Bauakas hỏi.
“Sao tôi
phải làm thế?” gã ăn xin đáp lại. “Con ngựa này là của tôi. Nếu ông không muốn
trả lại, chúng ta sẽ đến tòa giải quyết.”
Nghe
thấy cãi nhau, người xung quanh bảo họ:
“Đến gặp
quan tòa đi! Ông ấy sẽ giải quyết cho hai người!”
Bauakas
và người tàn tật đến gặp quan tòa. Ở tòa đang có nhiều người khác, vị quan gọi
từng người theo thứ tự. Trước khi đến lượt Bauakas và người tàn tật, vị quan
tòa đang nghe chuyện của một trí thức và người nông dân. Họ đến cùng một phụ nữ ;
người nông dân cho biết đó là vợ ông, còn người học giả lại bảo của mình. Vị
quan tòa nghe xong, im lặng một lúc, rồi nói:
“Để
người phụ nữ này ở đây, ngày mai hai người quay lại.”
Khi hai
người kia đi khỏi, có người bán thịt và người bán dầu đến trước vị quan tòa. Người
bán thịt dính đầy máu còn người bán dầu dính đầy dầu. Trong tay người bán thịt
cầm tiền còn người bán dầu đang giữ tay anh ta.
“Tôi
đang mua dầu của người này,” - người bán thịt kể - “Khi tôi đang rút ví lấy
tiền để trả, hắn liền túm lấy tay tôi và cố lấy tiền của tôi. Đó là nguyên nhân
chúng tôi đến gặp ngài – tôi đang giữ ví của mình, còn hắn đang cầm tay tôi. Nhưng
đây là tiền của tôi, hắn chính là tên ăn cắp.”
Đến lượt
người bán dầu kể. “Đó không phải là sự thật,” anh ta nói. “Người bán thịt đến
mua dầu, sau khi tôi đã đổ đầy chai dầu, hắn nhờ tôi đổi một mẩu vàng. Khi tôi
lấy tiền ra và đặt lên ghế, hắn đã tóm lấy và định chạy trốn. Tôi nhanh tay túm
lấy hắn và như ngài thấy tôi đem hắn đến cho ngài xử.”
Vị quan
tòa im lặng một lúc rồi nói: “Để tiền lại đây, ngày mai hai người quay lại.”
Khi đến
lượt mình, Bauakas kể lại chuyện xảy ra. Vị quan tòa lắng nghe, sau đó yêu cầu
kẻ ăn mày kể.
“Tất cả
những gì hắn nói không phải sự thật,” tên ăn mày nói. “Hắn đang ngồi dưới đất,
gặp tôi đi vào thành phố, hắn xin đi nhờ. Tôi cho hắn lên ngựa đi cùng và đưa
hắn tới nơi cần đến. Nhưng khi chúng tôi đến đây, hắn không chịu xuống mà lại
còn cãi đây là ngựa của hắn, đó không phải sự thật.”
Vị quan
tòa suy nghĩ một lát rồi bảo: “Để con ngựa ở
đây, ngày mai hai người quay lại.”
Ngày hôm
sau, nhiều người đến tòa nghe phán quyết của vị quan.
Đầu tiên
là vụ của nông dân và trí thức.
“Đưa vợ
ông đi,” vị quan nói với người trí thức, “tên nông dân này bị phạt đánh 50
roi.”
Người
trí thức đưa vợ đi, còn nông dân ở lại chịu phạt.
Tiếp đến
vị quan gọi người bán thịt.
“Tiền
này là của anh,” ông nói. Sau đó vị quan chỉ vào kẻ bán dầu và nói: “Phạt đánh
hắn 50 roi.”
Sau đó,
ông gọi Bauakas và tên ăn mày.
“Ông có
thể nhận ra con ngựa của ông giữa một đàn có hai mươi con không?” vị quan hỏi
Bauakas.
“Tôi
nhận được”, đức vua đáp.
“Còn
anh?” ông hỏi người tàn tật.
“Tôi
nhận được,” hắn trả lời.
“Đi theo
tôi”, vị quan tòa nói với Bauakas.
Họ đến
chuồng ngựa. Bauakas chỉ ngay vào con ngựa của ông đang đứng giữa hai mươi con
khác. Tiếp đến, vị quan đưa người tàn tật đến chuồng ngựa nhận dạng. Hắn nhận
ra ngựa và chỉ vào nó. Vị quan quay về tòa và ngồi xuống ghế.
“Mang
con ngựa đi, nó là của ông,” vị quan nói với Bauakas. “Phạt tên ăn mày này 50
roi.”
Khi quan
tòa trở về nhà, Bauakas đi sau ông.
“Ông cần
gì nữa?” vị quan hỏi. “Chẳng lẽ ông không vừa lòng với phán quyết của tôi à?”
“Tôi hài
lòng,” Bauakas trả lời. “Nhưng tôi rất muốn được biết là tại sao ông biết người
phụ nữ kia là vợ của học giả, tiền là của người bán thịt, con ngựa là của tôi
chứ không phải của tên ăn xin.”
“Đây là
lý do tôi biết về thân thế của người phụ nữ: Sáng nay tôi đưa cho chị ta và
nói: ‘Hãy đổ đầy lọ mực này cho tôi.’
Chị ta
cầm lấy, nhanh chóng và khéo léo rửa sạch, sau đó đổ đầy mực vào; do đó đây
chắc hẳn là công việc chị ta quen làm. Nếu là vợ của nông dân, chị ta sẽ không
biết làm việc này. Điều đó chứng tỏ người trí thức nói thật.
“Và đây
là lý do tôi biết về số tiền: Tôi thả tiền vào một cốc nước đầy, sáng ra tôi
quan sát xem có dầu nổi trên mặt nước hay không. Nếu là của người bán dầu, tiền
này sẽ dính dầu. Nhưng không có dầu nổi trên mặt nước nên người bán thịt đã nói
thật.
“Còn
chuyện tìm ra ngựa thì phức tạp hơn. Người tàn tật đã nhận ra ngựa giữa hai
mươi con khác và ông cũng thế. Tuy nhiên, mục đích tôi đưa hai người vào chuồng
ngựa không phải để nhận dạng, mà tôi muốn xem chú ngựa biết ai. Khi ông lại gần,
chú ngựa ngoái đầu lại nhìn và rướn cổ về phía ông nhưng khi người tàn tật chạm
vào, nó vểnh tai và nâng chân lên. Theo đó, tôi biết ông chính là chủ nhân thực
sự của chú ngựa này.”
Bauakas
nói với vị quan tòa: “Tôi không phải dân buôn mà là vua Bauakas, tôi đến đây để
chứng thực những lời đồn về ông. Tôi thấy ông là vị quan thông minh. Hãy nói
cho tôi biết ông muốn gì, ông sẽ được nhận như một phần thưởng của tôi.”
CÂU HỎI VÀ HƯỚNG DẪN MÃ HÓA
Câu hỏi 1: VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM R12Q01 - 0 1 9
Ở đoạn đầu câu chuyện, chúng ta được biết Bauakas đã cải trang thành một thương nhân.
Tại
sao Bauakas không muốn bị phát hiện?
A. Ông muốn biết liệu mình có
được tuân lệnh ngay cả khi cải trang thành “dân thường”.
B.
Ông dự định xuất hiện trước vị quan tòa trong vai của một thương nhân.
C. Ông thích cải trang để đi lại tự do và trêu chọc người khác.
D. Ông muốn
quan sát vị quan tòa làm việc như bình thường, không bị ảnh hưởng khi nhà vua xuất hiện
VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM: HƯỚNG DẪN MÃ HÓA CÂU HỎI 1
VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM: HƯỚNG DẪN MÃ HÓA CÂU HỎI 1
Mức tối đa: D. Ông muốn quan sát vị
quan tòa làm việc như bình thường, không bị ảnh hưởng khi nhà vua xuất hiện
Không đạt: Câu trả lời khác hoặc không trả lời
Câu hỏi 2: VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM R12Q02 - 0
1 9
Vị
quan tòa đã làm cách nào để biết người phụ nữ là vợ của học giả?
A. Bằng cách quan sát hình
dáng và thấy chị ta không có vẻ ngoài giống vợ của một người nông dân.
B. Bằng
cách nghe người trí thức và nông dân kể lại câu chuyện trước tòa.
C.
Bằng cách theo dõi chị ta phản ứng với người trí thức và nông dân trước tòa.
D. Bằng cách kiểm tra kinh nghiệm làm việc giúp đỡ chồng
VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM: HƯỚNG DẪN MÃ HÓA CÂU
HỎI 2
Mức tối đa: D.
Bằng cách kiểm tra kinh nghiệm làm việc giúp đỡ chồng
Không đạt: Câu trả lời khác hoặc
không trả lời
Câu
hỏi 3: VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM
R12Q03 - 0
1 9
Em có nghĩ rằng việc vị quan
tòa tuyên CÙNG một hình phạt cho các tội phạm là công bằng hay không? Giải
thích câu trả lời, đề cập tới điểm giống và khác nhau giữa ba trường hợp trong
câu chuyện.
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM: HƯỚNG DẪN MÃ HÓA CÂU HỎI 3
Mức tối đa: Đánh giá sự công bằng của các hình phạt
với mỗi trường hợp, xét về sự tương đồng và khác biệt của các hành vi phạm tội.
Cho thấy sự hiểu biết đúng về các tội ác.
o
Không, cố tình chiếm đoạt vợ
người khác là một tội ác nghiêm trọng so với ăn cắp tiền hoặc cướp ngựa.
o
Cả ba tên tội phạm đều cố tình
lừa người khác và nói dối không nhận, do đó họ đều bị phạt giống nhau.
o
Điều này rất khó nói. Nông
dân, người bán dầu và kẻ ăn mày đều cố tình trộm cắp. Nói cách khác, những thứ
họ lấy đều không có giá trị ngang bằng nhau.
.
o
Không, có một số vụ còn tồi tệ
hơn nhiều vụ khác. [Câu trả lời đúng tối thiểu: đưa ra tiêu chuẩn (“tồi tệ”)
cho các hình phạt.]
o
Đúng, tất cả họ đều nói dối
Không đạt
-
Cho thấy sự hiểu biết đúng về các vụ việc và/hoặc hình phạt nhưng
không đánh giá.
o
Vị quan tòa phạt ba tên tội
phạm 50 roi. Các vụ án gồm có chiếm đoạt phụ nữ, ăn trộm tiền và ăn cắp ngựa.
-
Cho thấy sự hiểu sai về các vụ việc hoặc hình phạt.
o
Em nghĩ rằng vụ của nông dân
và trí thức khác với hai vụ còn lại vì nó giống như một vụ ly hôn, trong khi
hai vụ kia là trộm cắp. Vì thế không nên phạt người nông dân.
-
Đánh giá tính công bằng của hình phạt đối với mỗi vụ việc (thí dụ, trả lời câu
hỏi “Phạt đánh 50 roi có công bằng không?”)
o
Không, phạt 50 roi là quá nặng
đối với bất kỳ loại hình phạm tội nào.
o
Có, cần thiết áp dụng các hình
phạt khắt khe để bọn tội phạm không cố tình tái phạm nữa.
o
Không, Em nghĩ rằng hình phạt
chưa đủ mạnh.
o
Vị quan quá nghiêm khắc.
-
Câu trả lời không liên quan hoặc mơ hồ, không giải thích hoặc giải thích
lạc đề không phù hợp với nội dung câu chuyện.
o
Có, em nghĩ như vậy là công
bằng.
o
Không, bởi vì em có thể là
người vi phạm lỗi nhỏ và dễ dàng tìm thấy trong cuộc sống.
o
Có, vì ông là một vị quan công
tâm.
o
Em không nghĩ đưa ra cùng một
hình phạt là công bằng vì các vụ khác nhau. [Dùng từ “khác nhau” chưa đủ để
đánh giá vụ việc và giải thích vì sao không áp dụng cùng hình phạt cho các vụ
việc.]
o
Không, vì có liên quan đến
nhiều hoàn cảnh khác nhau.
o
Có, cả ba vụ việc điều có
người tốt và kẻ xấu, những kẻ tạm gọi là phản diện cần bị phạt vì đã làm việc
xấu. [Đây không phải là sự đánh giá về vụ việc.]
-
Không trả lời hoặc thiếu.
Câu hỏi 4: VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM R12Q04 - 0 1 9
Câu hỏi 4: VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM R12Q04 - 0 1 9
Nội dung chính của câu
chuyện là gì?
A. Những tên tội phạm chính
B. Công lý sáng suốt.
C. Người trị vì giỏi.
D. Mưu mẹo thông minh.
VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM: HƯỚNG DẪN MÃ
HÓA CÂU HỎI 4
Mức tối đa: B. Công lý sáng suốt.
Không
đạt: Câu trả lời khác hoặc không
trả lời
Câu
hỏi 5: VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM R12Q05 - 0 1 9
Với câu hỏi
này, em cần so sánh giữa pháp luật và công lý ở đất nước mình với pháp luật và
công lý nêu trong câu chuyện.
Trong truyện
này, những tên tội phạm đã bị pháp luật trừng trị. Còn điểm gì TƯƠNG ĐỒNG giữa pháp luật và công lý ở
nước của em với pháp luật và công lý trong câu chuyện này?
......................................................................................................................................
Trong truyện, vị quan tòa đã phạt mỗi tên tội phạm 50
roi. Ngoài các hình thức tuyên phạt, có điểm nào KHÁC giữa pháp luật và công lý ở nước của em với pháp luật và công
lý thể hiện trong câu chuyện này?
......................................................................................................................................
VỊ
QUAN TOÀ CÔNG TÂM: HƯỚNG DẪN MÃ HÓA CÂU HỎI 5:
Nội dung trả lời về sự tương đồng
Mức tối đa: Mô trả sự tương đồng. Cho thấy sự
hiểu biết chuẩn xác về câu chuyện. Cách so sánh với đặc điểm của hệ
thống luật pháp quốc gia rõ ràng hoặc dễ hiểu. Không nhất thiết phải thể
hiện kiến thức hiểu biết chuẩn xác về hệ thống luật pháp quốc gia, nhưng có
kiến thức căn bản về luật pháp trong nước là điều nên có ở thanh thiếu niên 15
tuổi.
· Phán quyết dựa trên bằng chứng.
· Hai bên đều được phép kể lại phiên
bản sự thật của mình.
· Bình đẳng trước pháp luật (không
kể bạn là ai).
· Có một quan tòa làm chủ tọa.
· Các vụ việc tương tự đều nhận hình
phạt giống nhau.
· Những người tại tòa nhận phán
quyết dựa trên nhiều bằng chứng thu nhận được.
· Mỗi người đều được nói.
· Họ được đến tòa để phát biểu về
kết quả.
· Hệ thống pháp lý trong câu chuyện
này đều có một người công tâm đứng ra quyết định sự thật, đó là quan tòa.
·
Hệ
thống tòa án.
· Lý lẽ của các bên đều được lắng
nghe.
·
Ở
hệ thống nước em, thẩm phán cũng là những người cần phải sáng suốt và công tâm.
[Đánh giá xác đáng, thể hiện sự hiểu biết chuẩn xác về câu chuyện.]
Không đạt:
-
Câu trả lời khác, không liên quan, không chính xác và mơ hồ.
o
Không biết đúng sai.
o
Ngay cả các lãnh đạo quan
trọng cũng có thể bị hầu tòa.
o
Hình phạt.
- Không trả lời
Nội dung trả lời về sự khác biệt
Mức
tối đa: Miêu tả một điểm khác biệt. Cách so sánh với
đặc điểm của hệ thống luật pháp quốc gia rõ ràng hoặc dễ hiểu. Không nhất
thiết phải có kiến thức chuẩn xác về hệ thống pháp luật trong nước. (Thí dụ, có
thể chấp nhận “không có ban bồi thẩm” là “sự khác biệt”). Trau dồi kiến thức
căn bản về luật pháp trong nước là điều nên có ở thanh thiếu niên 15 tuổi.
·
Không có luật sư.
·
Vị thẩm phán đích thân điều
tra sự việc.
·
Tiến hành nhanh chóng, trong
khi các phiên tòa hiện đại thường mất vài tuần.
·
Không có ban bồi thẩm; dường
như không có cách kháng án.
·
Hình phạt khắc khe hơn nhiều.
[Nhận xét định lượng về mức phạt]
·
Áp dụng cùng một hình phạt
không kể loại vụ việc.
·
Hội đồng gồm có 12 quan tòa –
gọi là bồi thẩm đoàn– thay cho một vị quan.
·
Không có luật sư hoặc người
bào chữa.
·
Không có bằng chứng cụ thể.
·
Lời nói của quan tòa là phán
quyết cuối cùng.
·
Ở nước em thực hiện xét xử
trong phòng xử án.
·
Các vị quan tòa không áp dụng
“các cuộc kiểm tra” nhỏ như vị quan trong câu chuyện.
·
Câu chuyện có một vị quan công
tâm. [Nêu rõ hoặc ẩn ý về hệ thống pháp luật quốc gia. Câu trả lời phù hợp
với sự hiểu biết chuẩn xác về câu chuyện.]
Không có điểm
-
Câu trả lời khác, không liên quan, không chính xác hoặc mơ hồ.
·
Hình phạt.
·
Mô típ cũ.
·
Hệ thống tòa án.
·
Không áp dụng phạt đòn roi.
[lạc đề.]
·
Kết quả, phán quyết.
·
Không đội tóc giả.
-
Không trả lời.
Câu hỏi
6: VỊ QUAN TÒA CÔNG TÂM R12Q6 - 0 1 9
Tên
nào chính xác nhất sau đây mô tả câu chuyện này?
A. Câu chuyện dân gian.
B. Câu chuyện du
lịch.
C. Ghi chép lịch
sử.
D. Thảm kịch
VỊ QUAN TOÀ CÔNG TÂM : HƯỚNG
DẪN MÃ HÓA CÂU HỎI 6
Mức tối đa: A. Câu
chuyện dân gian
Không có điểm: câu trả lời khác hoặc không trả lời.
TÀI LIỆU PISA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét