Mộc Nhân
(Tư liệu giáo khoa)
Kể từ lúc ra đời cho
đến hôm nay, thời gian trôi qua đã ngót trên hai trăm năm, vậy mà Truyện
Kiều của Nguyễn Du vẫn mãi mãi sống trong tâm hồn dân tộc. Tác phẩm
không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, lời văn trau chuốt, giá trị hiện thực và
giá trị nhân văn cao cả mà còn vì các nhân vật chính diện trong truyện như Thúy
Kiều, Thúy Vân được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẽ, sinh
động, đầy ý nghĩa thẩm mĩ. Nguyễn Du không chỉ ca ngợi vẻ đẹp, tài năng mà còn
dự cảm về cuộc đời và số phận nhân vật. Đó cũng chính là biểu hiện của cảm hứng
nhân văn trong tác phẩm.
Thuý Vân, Thuý Kiều
là hai cô con gái đầu lòng của gia đình họ Vương. Ngay từ đầu, nhà thơ đã gây
được mối thiện cảm khác thường cho người đọc về hai chị em qua dòng thơ giới
thiệu: “Đầu lòng hai ả tố nga”. Từ tố nga - là
một mỹ từ ý nói cả hai chị em đều là những cô gái đẹp. Vẻ đẹp của họ được khái
quát trong hai câu thơ:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười ”.
Cốt cách của họ mảnh mai, thanh
tao, sang trọng như cây mai.
Tâm hồn, tính cách
của họ thì trong trắng như tuyết. Nhà thơ đã dùng hình ảnh ước lệ, tượng trưng
- lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người.
Câu thơ có sử dụng
hình thức tiểu đối nhằm thể hiện vẻ đẹp toàn diện, toàn mĩ của cả hai chị em.
Nhìn chung cả hai đều đẹp - mười phân vẹn mười - nhưng
nhìn riêng thì mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng - mỗi người một vẻ.
2. Sau những câu thơ giới thiệu về
hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân
dung quí phái của Thuý Vân. Tác giả đã khái quát vẻ đẹp của Thuý
Vân qua cụm từ trang trọng khác vời. Hai chữ trang
trọng nói lên vẻ đẹp cao sang, quí phái của nhân vật. Vẻ đẹp ấy của
thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời chỉ với mấy dòng thơ:
“Khuôn trăng đầy
đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt
đoan trang
Mây thua nước tóc
tuyết nhường màu da”
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn
vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn
mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có
miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc
và mái tóc của nàng đen hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của
Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi đất
trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quí phái. Vân đẹp
hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu "mây
thua", "tuyết nhường".
Bằng một loạt những
nét miêu tả có tính chất ước lệ kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như so
sánh, ẩn dụ, nhân hoá …và hệ thống từ ngữ chọn lọc, tác giả đã khắc hoạ thành
công chân dung Thuý Vân. Nét đẹp nào của nàng cũng hoàn hảo và được đem so với
những thứ cao quí của thiên nhiên.
Đặc biệt với cặp từ nhân hóa …thua…nhường…nhà thơ muốn gửi tới
những thông điệp về tương lai, cuộc đời, số phận nhân vật. Vẻ đẹp ấy phù hợp
với chuẩn mực thẩm mĩ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến với nét nổi bật
là sự đoan trang, phúc hậu, nền nã; tạo được sự hoà hợp; thiên nhiên không ganh
ghét với nàng, vì thế cuộc đời của nàng sẽ bình lặng và hạnh phúc, suôn sẻ.
3. Cũng
như cách miêu tả Thuý Vân, câu thơ mở đầu khái quát vẻ đẹp của nhân vật Thuý
Kiều: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Kiều có tất cả những gì Thuý
Vân có nhưng ở mức độ “So bề tài sắc lại là phần hơn” . Nàng sắc
sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn.
Tác giả tiếp tục sử
dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ với các biện pháp nghệ thuật truyền
thống trong văn thơ cổ như ẩn dụ, nhân hoá, so sánh, tượng trưng…Nét vẽ của thi
nhân thiên về gợi hơn là tả chi tiết cụ thể, tạo ấn tượng chung về vẻ đẹp của
một giai nhân tuyệt thế.
Khắc hoạ chân dung Thuý Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: “Làn
thu thủy, nét xuân sơn”. Hình ảnh làn thu thuỷ gợi
lên đôi mắt đẹp, sống động, sáng ngời, gợi
tình như sóng nước như làn nước mùa thu; nét xuân sơn gợi
lên đôi lông mày thanh tú cong cong mềm
mại, như vẻ núi mùa xuân trên khuôn mặt trẻ trung. Cách miêu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh
sáng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý. Đôi mắt nhìn
đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết
yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống nội tâm
phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vô hồn, vô cảm của
Thúy Vân .Đôi mắt của Kiều là sự thể hiện của trí tuệ và tâm hồn. Với
đôi mắt ấy, Thuý Kiều trở nên quyến rũ và xinh đẹp đến mức:
“Hoa
ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành”.
Thành ngữ nói quá nghiêng
nước nghiêng thành lấy từ một điển tích xưa ý nói sắc đẹp tuyệt
vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến mức điên đảo. Sắc đẹp
ấy, đôi mắt ấy là của một tuyệt thế giai nhân hiếm có, đẹp như thế thì trên đời
này chỉ có một -“ Sắc đành đòi một”.
Với cách dùng cặp từ nhân hóa “ghen…hờn” nhà thơ muốn nói vẻ
đẹp của Kiều làm cho tạo hoá ganh ghét, đố kị. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước
một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa không tươi thắm bằng dung nhan của nàng,
liễu kém phần tươi non so với sức sống, tuổi trẻ mơn mởn của Kiều.Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thổi linh
hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một náng
Kiều trẻ trung với tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh
tươi. Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời “hồng nhan đa truân”.
Nguyễn
Du tài hoa ở chỗ ông không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện tính cách, mà còn
thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn”
để miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại
đi theo hai hướng khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi
tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn trở bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu
Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân
đạo Nguyễn Du: ông yêu thương, nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả
một sự yêu thương, nâng niu đầy băn khoăn, lo lắng trước số phận dự báo sẽ gặp nhiều
éo le đau khổ và bất hạnh.
Kiều là con người đa tài. Tài của
Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm cả thi, họa, ca
ngâm.
“Thông minh vốn
sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ
đủ mùi ca ngâm”
Với những từ ngữ nghề…làu…nghề
riêng ăn đứt…tác giả muốn nói tài nào của nàng cũng đạt đến độ điêu luyện,
vượt lên trên mọi người, trở thành nghề riêng của nàng. Tài
năng như thế trên đời này thật hiếm có “tài đành hoạ hai”.
Đặc biệt với tài đàn
là ngón nghề sở trường, Kiều đã sáng tác nên bản đàn Bạc mệnh nghe
rất sầu não, buồn thương:
“Khúc nhà tay lựa
nên chương
Một thiên Bạc mệnh
lại càng não nhân”
Dường như số phận
đã nhập vào điệu hồn riêng của nàng để hoá thân thành bản đàn “Bạc mệnh” mách
bảo người nghe về một tương lai dâu bể sẽ xô cuốn đời nàng. Câu chữ, lời thơ
chất chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trên mỗi từ
ngữ của Tố Như. Nhưng làm sao khác được, “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào
Kiều Khúc đàn ấy
cũng là tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm, cũng là tín hiệu dự báo
cuộc đời sầu não, trắc trở của nhân vật.
Tả Thuý Vân,
Nguyễn Du chỉ dùng bốn câu thơ trong khi đó tả Thuý Kiều ông đã dùng đến mười
hai câu thơ. Chân dung của Thuý Vân chủ yếu là sắc đẹp, còn chân dung nàng Kiều
là sự kết hợp của sắc- tài- trí thông minh- tình cảm- tâm hồn- tính
cách- số phận. Về trình tự miêu tả, tác giả tả Vân trước làm nền, tả
Kiều sau để nàng được nổi bật trên cái nền ấy. Đó là bút pháp nghệ thuật đòn
bẩy, tả khách hình chủ nhằm làm nổi bật chân dung nhân vật.
Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành nhiều quan tâm, ưu ái dành cho nhân vật Thuý
Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Đoạn thơ có kết cấu khá chặt chẽ, nhà thơ đã đi từ giới thiệu khái quát
đến miêu tả cụ thể từng bức chân dung nhân vật và cuối cùng là đánh giá về nhân
vật. Điều ấy nói lên cách miêu tả nhân vật rất sâu sắc và tinh tế của tác giả.
Đoạn trích không chỉ
cho ta thấy nghệ thuật miêu tả nhân vật bằng bút pháp ước lệ cổ điển mà còn thể
hiện cảm hứng nhân văn của nhà thơ trong tác phẩm. Biểu hiện của cảm hứng nhân
văn ấy là sự đề cao những giá trị con người. Đó là vẻ đẹp, nhân phẩm, tài năng,
ý thức về thân phận con người. Gợi tả tài sắc chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du đã
trân trọng, dành hết tình cảm, sự ưu ái cho nhân vật của mình.
Mộc Nhân Lê Đức Thịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét