1. Văn tự sự là một kiểu
văn bản quan trọng trong chương trình Ngữ văn THCS, nhà văn Tạ Duy Anh đã từng
chia sẻ rằng: “Hiệu quả cuối cùng của văn tự sự là phải tạo ra ở người tiếp nhận
không chỉ sâu sắc cả về phương diện tư tưởng lẫn thẩm mĩ mà còn gây cho họ sự hứng
thú suy nghĩ” (Mấy mẹo vặt khi viết văn kể). Để có được điều đó trong văn
tự sự cần kết hợp được các phương thức biểu đạt. Ở lớp 6 học sinh đã được làm
quen với văn tự sự nhưng chưa yêu cầu kết hợp các phương thức biểu đạt. Trong
chương trình Tập làm văn lớp 8, đối với kiểu bài tự sự các em cần phải tìm hiểu
sâu hơn, phải biết sử dụng ngôi kể cho linh hoạt và đặc biệt phải biết kết hợp
cân đối các yếu tố miêu tả và biểu cảm để bài viết sinh động gây ấn tượng sâu sắc
đối với người đọc (người nghe). Lên lớp 9 văn tự sự được học với yêu cầu tổng hợp
cao hơn nữa, đó là tự sự kết hợp với yếu tố miêu tả, biểu cảm, đối thoại, độc
thoại, độc thoại nội tâm và đặc biệt là yếu tố nghị luận - một yếu tố có vai
trò quan trọng trong việc nâng cao giá trị bài viết và làm cho câu chuyện để lại
dấu ấn trong tâm khảm người đọc.
Nói thế không có nghĩa là đưa yếu tố nghị luận vào bài tự sự
càng nhiều càng tốt mà cần phải biết chọn lọc đưa vào cho thật hợp lí để
bài viết khỏi rời rạc, thiếu cân đối giữa các yếu tố. Bởi vì trong đoạn văn tự
sự, các yếu tố nghị luận không được lấn át tự sự. Nhưng thực trạng hiện nay học
sinh lớp 9 khi tạo lập văn bản tự sự nhiều em cơ hồ lãng quên đi yếu tố nghị luận,
hoặc sử dụng yếu tố nghị luận nhưng chưa thành công.
2. Tập làm văn là phân môn thực hành có mục tiêu quan trọng
là rèn luyện cho học sinh năng lực tiếp nhận và kĩ năng tạo lập văn bản. Dạy Tập
làm văn lớp 9 cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc này. Trong văn bản tự sự ít
khi tác giả thuần kể người, kể việc mà thường kết hợp nhiều phương thức biểu đạt.
Trong đó sử dụng yếu tố nghị luận là một kĩ năng cần có khi viết văn tự sự ở chương
trình tập làm văn 9 và đây cũng là dịp củng cố khắc sâu kiến thức và rèn kĩ
năng làm văn nghị luận mà các em đã được học trong chương trình Ngữ văn 7.
Mặt khác văn nghị luận thường khô khan, đòi hỏi tư duy ở mức độ cao hơn kể
người, kể việc nên học sinh còn ngại khó. Các em chưa nổ lực hết mình trong tư
duy sáng tạo nên dẫn đến học sinh còn mơ hồ lãng quên yếu tố nghị luận khi viết
đoạn văn tự sự. Một số em có ý thức đưa yếu tố nghị luận vào đoạn văn nhưng
đem lại hiệu quả chưa cao. Bởi các em chưa thực sự hiểu rõ và phân biệt được
yếu tố nghị luận trong văn bản nghị luận và yếu tố nghị luận trong văn bản
tự sự, hay khi nào dùng yếu tố nghị luận? Và chúng ta nghị luận bằng cách nào?
Nếu các em hiểu rõ và trả lời được những câu hỏi này thì chắc rằng việc sử dụng
yếu tố nghị luận trong đoạn văn tự sự không còn là vấn đề khó khăn, gượng ép đối
với học sinh lớp 9.
3. Văn tự sự tái hiện cuộc sống bằng hình tượng. Thông qua cốt
truyện, nhân vật, người viết gửi gắm tư tưởng (cách nhìn, cách đánh giá hiện thực…).
Ý nghĩa tư tưởng ẩn trong hình tượng. Song, đôi khi để gợi mở, thuyết phục người
đọc, người viết có thể kết hợp yếu tố nghị luận bằng nhiều cách. Để giúp học
sinh vận dụng tốt yếu tố nghị luận trong đoạn văn tự sự, ta cần thực hiện
một số nội dung sau:
@. Rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sau:
1. Phân biệt yếu tố nghị luận trong văn bản nghị
luận và yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự.
Trong văn nghị luận, yếu tố nghị luận thể hiện ở chỗ: người
viết tập trung đưa ra các luận điểm, luận cứ một cách đầy đủ, có hệ thống và hết
sức chặt chẽ. Các nội dung, ý lớn, ý nhỏ phải gắn bó phụ thuộc vào nhau, cùng
nhau làm bật nổi tư tưởng bài viết.
- Còn yếu tố nghị luận trong văn tự sự chỉ là các yếu tố đơn
lẻ, biệt lập trong một tình huống cụ thể nào đó của câu chuyện. Vì vậy nếu sử dụng
tràn lan, nó sẽ phá vỡ mạch tự sự của bài viết.
2. Khi nào dùng yếu tố nghị luận?
- Khi cần thuyết phục người đọc tin vào một tư tưởng, quan
điểm nào đó mà mình đưa ra trong bài. Khi cần trình bày một nhận xét đánh giá
nào đó về cuộc đời, sự việc, lẽ sống…vì mục tiêu chủ yếu của văn nghị luận là
tác động vào lí trí.
3. Chúng ta nghị luận bằng cách nào?
- Có nhiều cách nghị luận. Nhưng cách đơn giản nhất là tạo
ra các cuộc đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm, trong đó người nói thường
nêu lên các nhận xét, phán đoán, đánh giá, các lí lẽ nhằm thuyết phục người
nghe, hoặc thuyết phục chính mình về một vấn đề, một quan điểm, tư tưởng nào đó.
Ví dụ 1: Cuộc đối thoại giữa cô sinh viên nghèo với một cậu
con nhà giàu bị cụt cả hai chân trong một cuộc đua xe. Mẹ cậu đã thuê cô sinh
viên nghèo chăm sóc . Cô nhận lời để lấy tiền ăn học.
… “ Hôm nay, có máy kiểu chết trên báo, cậu chọn kiểu nào?
Nhảy từ café 33 tầng vào sinh nhật lần thứ 21. Hỗn chiến tại quán bia bị đâm. Một
nữ sinh 17 tuổi dắt xe đạp băng qua đường sắt bị tàu đụng…”
- Toàn ghê rợn! Gã nhăn mặt.
- Làm gì có cái chết dịu dàng! Để có cái chết phải băng qua đau
đớn.
…Cô phải làm gì nếu mai cô chết? Gã hỏi lại:
- Tôi sẽ đấu tranh đến cùng để mai tôi vẫn sống. Một ngày là
một cuộc chiến.
- Giá nghèo như cô tôi sẽ không bất hạnh như thế này. Không
có xe để đua, không có tiền để đốt đời mình…
- Tại cậu chưa nếm mùi nghèo khổ đó thôi! Tàn bạo, khốc liệt
lắm, cuốn trôi bao mơ ước, đè bẹp bao số phận. Nhưng khi thừa mứa quá, nỗi đau
trong tim còn dữ dội hơn cả cái đói”.
(Trích Một cuộc đua của Quế Hương)
4. Khi diễn đạt các yếu tố nghị luận,
người ta thường dùng kiểu câu nào?
- Khi diễn đạt các yếu tố nghị luận, người ta thường dùng kiểu
khẳng định hoặc phủ định.
Ví dụ: “ Đã gọi là hy vọng thì không thể nói đâu là thực
đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn
làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”.
(Cố hương - Lỗ Tấn)
Ví dụ 2: “ Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng
yên một chỗ, có cái hôm qua đúng hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá bỏ.”
(Tôi và chúng ta - Lưu Quang Vũ - Ngữ văn 9)
Trong văn tự sự thường có tất cả các phương thức biểu đạt, vì tự sự chính
là bức tranh sinh động gần gũi với cuộc sống. Mà cuộc sống thì vốn phong phú,
đa chiều với rất nhiều màu sắc và cảnh huống. Để tự sự thành công, bên cạnh việc
dùng các phương thức biểu cảm, miêu tả, thuyết minh, người viết còn phải biết
cách sử dụng yếu tố nghị luận để làm cho câu chuyện có tính triết lí sâu sắc,
chủ đề được khắc sâu, vị thế của bài viết được nâng lên cao hơn. Trong văn
bản tự sự, nếu tình huống truyện là cánh cửa mời gọi người đọc đi vào câu
chuyện thì yếu tố nghị luận sẽ neo giữ người đọc ở lại lâu hơn để chiêm nghiệm
thế giới của bao điều kì diệu từ câu chuyện làm nên. “Cho dù gió chẳng
đủ để cuốn mây đi, hoa cũng chẳng thơm đủ bốn mùa nhưng yếu tố nghị luận lại đủ
sức làm cho “sinh mệnh” của bài văn tự sự sẽ được kéo dài mãi mãi”.
ĐOẠN
VĂN TỰ SỰ
1. Trong truyện ngắn Mua nhà của
nhà văn Nam Cao (1943) có đoạn: “Nhưng mà thôi, anh Kim ạ. Nghĩ ngợi làm
gì nữa? Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp. Người
này co thì người kia hở. Đâu phải tôi muốn tệ? Nhưng biết làm sao được? Ai bảo
đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình, mà chẳng thiệt đến
ai!”
2. Nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao
đã tự thuyết phục chính mình như sau:
… “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau
chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đế một cái gì khác đâu?
Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.
Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chưa không nở giận”.
3. “Một ngày kia, đi học về thấy mẹ cầm trên tay mảnh giấy
và khóc rưng rưng, tôi lo sợ lại bên mẹ, thì ra giấy báo anh tôi đỗ vào trường
THPT. Tôi hiểu đó là nước mắt của sự sung sướng tột cùng, nước mắt của bao ngày
mong đợi …”
(Bài làm của học sinh “Kể về một người thân mà em yêu quí”)
4. “Trong lớp mấy đứa con gái xì xào chuyện tôi
và Quân, ghép đôi hai đứa với nhau. Mặt kệ! Đó là việc của bọn con gái thích
“buôn dưa lê, bán dưa chuột” ở mọi lúc mọi nơi. Dù có hơi xấu hổ nhưng chúng
tôi vẫn là đôi bạn cùng tiến sẵn sàng giúp đỡ nhau về mọi mặt. Tương lai phía
trước còn dài và còn rất nhiều thử thách. Khi người ta cầm tay nhau, cùng nhau
đi đến một mục đích cuối cùng là thành công trên con đường học vấn thì không có
gì là xấu cả…”
(Bài làm của học sinh “ Câu chuyện về một tình bạn đẹp”)
5. “Hôm đó, tôi đợi mãi chẳng thấy Hằng đâu. Thì ra Hằng bị ốm
không đi dọn vệ sinh trường học được…Một ngày không gặp Hằng tôi cảm thấy như
thiếu một cái gì đó. Một cái gì vô hình khó tả, một cái gì không thể gọi tên
đích thực. Đến tận bây giờ tôi mới hiểu ra rằng cái mà không thể gọi tên đích
thực ấy là tình bạn - một tình cảm không giống với bất cứ thứ tình cảm nào, bởi
nó quá đổi bình dị mà thiêng liêng, đơn sơ mà bất diệt…”
(Bài làm của
HS Uân Thị Hà Lớp 9/1 “ Câu chuyện về một tình bạn đẹp”)
6. “Nhưng, các em ạ, mỗi người có con đường học tập
riêng của mình. Nếu không thể một tay vẽ hình vuông, một tay vẽ hình tròn
cùng một lúc, thì vẫn phải tập trung tư tưởng, chú ý nghe giảng mới có thể
giành thành tích ưu tú. Đây chỉ là sự khác nhau của con đường dẫn đến thành
công. Mọi con đường đều có thể dẫn đến thành La Mã, chúng ta chớ bỏ qua sự cố gắng.
Cả lớp học bỗng vang lên những tràng vỗ tay nhiệt liệt.”
(Trích Truyện ngắn- “Ngón đòn quen thuộc” của Phạm
Tử Bình)
7. “Thầy nhắc nhở nhóc Tuấn rằng đừng dựa gia đình khá
giả mà lười học ham chơi đến nỗi chẳng bao giờ làm chủ được mình…Thầy cũng nhắc
nhóc Tuấn không được trêu em nữa vì theo thầy sự khuyết tật trong tâm hồn,
trong suy nghĩ, trong nhân cách còn đáng sợ hơn nhiều so với sự khuyết tật của
hình hài dù đó là sự khuyết tật mà không phải khi nào người ta cũng nhìn thấy.
Có mắt mà không biết nhìn, có tai mà không biết nghe những điều tốt đẹp - điều ấy
còn đáng thương hơn cả những người khuyết tật…”
(Bài làm của học sinh “Kể về một người thân mà em yêu quí”)
8. “ Mùa đông năm ấy, trời rất lạnh. Bà tôi biết trong
lớp tôi có một bạn và anh chị em của bạn ấy không có bao tay, nón và khăn
choàng cổ. Bà đã tặng món quà ấy cho các bạn của tôi một cách không ngần ngại.
Đó chỉ là một món quà thật đơn giản, nhưng đối với các bạn tôi là cả một sự kì
diệu. Bà nói với chúng tôi rằng: khi bà còn là một đứa trẻ, bà và các anh chị
khác phải mặc những chiếc áo choàng cũ trong mùa đông lạnh giá và tay thì luôn
bị nứt. Và bà không thể chịu được khi thấy có những đứa trẻ khác phải chịu cảnh
đó. Khi tôi thấy một đứa trẻ không có áo khoác và bao tay tôi không coi đó
là người lạ mà dường như thấy đó chính là bà tôi, mẹ tôi, các cô, các chú, các
bác của tôi. Đó chính là điều bà tôi đã dạy: những người nghèo khổ khó khăn mà
bạn thấy trên đường mỗi ngày có thể không phải là người mà bạn yêu quý
ngay lúc đó nhưng có thể là bạn vào ngày mai, có thể là những người thân
của bạn ngày hôm qua. Hãy biết yêu và giúp đỡ mọi người như đang giúp đỡ, đang
yêu những người thân của chính mình…
(Bài
làm của học sinh “Kể về một người thân mà em yêu quí”)
Đoàn
Thị Nhung
bài viết của bạn tuy ngắn và còn chưa hết ý nhưng rất sát thực,cảm on bạn
Trả lờiXóaCảm ơn ạ
Trả lờiXóa