Quanh chuyện "lì xì" ngày Tết
bằng tiền và bằng... chữ! Nghe hai tiếng "lì xì" người ta liền tưởng
tới bao giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần tư trang giấy học trò, bên trong có xếp
mấy tờ tiền mới. Vậy hai tiếng "lì xì" ở đâu ra? Nguồn gốc của nó thế
nào? Chúng tôi lân la "tầm nguyên" qua các nhà nghiên cứu, hỏi trực
tiếp bằng miệng có, giở sách vở các vị có, thấy giải thích hai chữ "lì
xì" tựu trung là "tiền mừng tuổi".
Cuốn từ điển thời nay do Viện Ngôn ngữ
học, Trung tâm Từ điển học chẳng hạn, mục từ lì xì giải thích: "Lì xì là
mừng tuổi (bằng tiền). Tiền lì xì cho các cháu ngày mùng một Tết".
"Lì xì" bằng tiền không chỉ giới hạn trong mùng một Tết, mà
"liền tù tì" suốt ba ngày đầu năm, thậm chí kéo dài tận những ngày
"mùng" cuối cùng của Tết như mùng 9, mùng 10. Theo một số vị mà chúng
tôi hỏi chuyện, như cụ Nguyễn Quảng Tuân, Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Đan Quế, thì
tục mừng tuổi vẫn cứ nên giữ. Nhà nghiên cứu Thông Hội bảo: "Đó là một
phần đậm đà của phong vị Tết Việt Nam, đặc biệt đối với trẻ con, khiến trẻ nhớ
tới Tết như một thời điểm mở đầu năm mới, đẹp như cổ tích". Với nhạc sĩ
Nguyễn Văn Tý, tác giả Dư âm, cứ nên lì xì "miễn là đừng lì xì tiền đô cho
trẻ, không đúng chỗ, mà tập hư cho chúng ăn xài". Vũ sư Hoài Nhơn (Trần
Trinh Nhơn), con trai lớn của công tử Bạc Liêu (Trần Trinh Huy), thì kể rằng:
"Ba tôi mất ngày 21 tháng chạp năm Quý Sửu 1973 ở Sài Gòn. Đầu năm đó, ăn
cái Tết cuối cùng, ông còn lì xì tôi mặc dầu tôi đã 27 tuổi. Tôi vẫn không quên
cái phong bì màu đỏ ấm áp, biểu lộ tình cảm của một người cha lúc nào cũng nhìn
xuống con mình như thời còn nhỏ tại Bạc Liêu". Nhà nghiên cứu Cao Sơn giải
thích: - Lì xì tiếng chữ là lợi thị, đọc theo âm Quảng Đông, Triều Châu thành
"Lê - i - xị", chỉ số tiền được cho, tặng trong các dịp đầu năm, khai
trương và cả trong lễ thành hôn nữa, chứ không bó hẹp trong dịp Tết Nguyên đán.
Lì xì
nhằm cầu chúc người nhận gặp may mắn, phát đạt. Thường người Tàu bỏ tiền vào
bao giấy màu đỏ. Người Việt Nam ta cũng làm tương tự, phổ biến ở miền Nam ngày
Tết. Ở miền Trung thì ông bà cha mẹ, người tôn trưởng cho con cháu tiền mới vào
dịp Tết gọi là "tiền mừng tuổi". Không chỉ người lớn mừng tuổi con
cháu, mà hồi xưa, con cháu phải mừng tuổi ông bà trước. Qua giao thừa, tới sáng
sớm mùng một, con cháu bảo nhau tới nhà thờ để chúc Tết và lạy mừng ông bà, cha
mẹ. Không chỉ lạy suông, cũng không thể muốn lạy mấy lạy thì lạy, mà theo nhà
văn Toan Ánh, chỉ lạy... hai lạy rưỡi. Lạy xong con cháu phải biết "thơm
thảo" với đấng sinh thành bằng cách cung kính dâng lên những thứ bánh trái
tươi ngon và một phong giấy hồng: Bên trong phong giấy thẳng thớm này có đặt
một món tiền, để lên khay tươm tất và hoan hỷ, xin các cụ nhận cho, đó là
"tiền mở hàng". Tiền này không nhằm để cất cho nặng hầu bao, mà ngụ ý
cầu chúc các cụ quanh năm sung mãn, may mắn. Tục mừng tuổi nay còn đó. Ông bà,
cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ lì xì lớp cháu, con. Bằng hữu thân quyến tới nhà
ai chúc Tết lì xì trẻ con của nhà đó. Hoặc chủ nhà đón khách tới chúc Tết lì xì
trẻ em đi theo khách. Ý nghĩa chính không nằm ở "tiền" mà ở
"tình", tức ở lòng mong ước cầu chúc các cháu hay ăn chóng lớn, vui
chơi, học hành tấn tới, còn phong bì nặng nhẹ nhiều ít (tiền) không phải là
điều đáng để tâm lắm. Thậm chí không có một cắc bạc mà chỉ có... chữ. Chữ viết
rõ to, đậm nét để "làm quà" mừng tuổi như chuyện dưới đây.
Xưa, có một nhà nọ, nghèo quá, sinh ba
đứa con trai. Tết đến người cha không có tiền để lì xì. Chiều ba mươi, ông nghĩ
ra một cách, lấy giấy đỏ làm 3 cái phong bì, bề ngoài trông thẳng thớm tươi tắn
đỏ thắm như các phong lì xì khác. Nhưng bên trong không bỏ tiền, mà thay bằng 3
miếng giấy được ông viết 3 chữ nắn nót: Phước - Lộc - Thọ. Qua sáng mùng một,
người cha gọi 3 đứa con trai đến trước bàn thờ, xoa đầu chúng, tươi cười mừng
tuổi chúng bằng 3 cái phong bì nhẹ hẫng, sau khi đã giải thích Phước là gì, Lộc
là gì, Thọ là gì... Qua Tết, bước vào năm mới, chẳng ngờ nhà ông phát tài, tiền
vô như triều cường. Thoắt cái, lại tới ba mươi tháng chạp. Ý chừng nhớ lại Tết
xưa nghèo thiếu, đạm bạc, ông định bụng sẽ tái diễn cách "lì xì" bằng
chữ để ba đứa "Phước Lộc Thọ" đừng bao giờ quên rằng, chúng đã được
ăn no mặc ấm từ một quá khứ đói rách gần đây. Ai đời, khi nhận phong bì xong,
ba đứa con bóc ra, mỗi đứa đều thấy vỏn vẹn chữ Phước, còn hai chữ Lộc Thọ biến
đâu mất. Người cha cũng ngạc nhiên không kém. Bốn cha con đang phân vân, bỗng một
người từ đâu đến bảo: "Ta là phúc thần của đất này. Chữ Phước đó do ta ban
cho. Chỉ cần có nó cũng gồm đủ cả ba: phước, lộc, thọ, vì có phước mới hưởng
được lộc, mới thọ lâu. Vì thế chẳng cần phải cầu lộc, cầu thọ, chỉ một chữ
phước để mừng tuổi đầu năm là đủ". Nói rồi, biến mất. Nhìn lại phong lì
xì, cả bốn cha con sửng sốt một lần nữa vì chữ phước cũng biến mất luôn, trên
mặt giấy trống trơn, trắng toát.
Bấy giờ vị thần thứ hai hiện ra kể cho
bốn cha con nghe một chuyện mừng tuổi xa xưa. Đó là câu chuyện nổi tiếng khắp
châu Á, loan truyền qua Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn, đến cả lưu vực sông
Hoàng Hà, Dương Tử của Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam từ lâu đời, về một
người cầu phước được phước, trở nên giàu có nhưng hết sức keo kiệt. Ông ta quên
những điều tốt đẹp, những ban phát ngọt ngào, rộng lượng mà mình đã làm ở tiền
kiếp, vì vậy một mực thâu góp vàng ngọc về riêng mình, trong kiếp này, bỏ vào
chiếc hũ, đem chôn ở một vị trí bí mật trong nhà không cho ai hay. Ngay cả con
trai của ông cũng không được biết nơi cất giấu. Về già, ông ngã bệnh. Khi chết,
linh hồn ông bị hũ vàng ám ảnh, đã quay lại nhà cũ, tìm cách chui vào xác chết
cứng lạnh của mình, nhưng bất lực. Thấy vậy, một con chó gần nhà có linh tính
đã nhường thể xác hèn mọn của mình cho kẻ giàu có kia trú vào, rồi bay lên
không trung thoáng đãng. Còn ông nhà giàu thay thế làm chủ thể xác của con vật
bốn chân, thỏa mãn được "sống" lại, dầu với tấm thân thuộc hàng súc
sinh như chó. Con chó đó lạ thay suốt ngày không đi đâu cả, cứ nằm lì trước
hiên. Mà chỉ nằm ở một nơi nhất định sát cửa ra vào. Hễ người con (bây giờ đã
là chủ nhà) đuổi đi, một lát không lâu nó lại quay về chỗ cũ, cứ như rời chỗ ấy
là nó rời sự sống của nó vậy. Các phước quả mà nó hưởng là hũ vàng ngọc, giờ
đây trở thành điều vô phước cột chặt nó vào tham si. Ngày nọ, một đại sư ngang
qua, nói với đứa con: "Này anh kia, anh có biết con chó đó là ai
không?". "Dạ thưa không". "Ta nói cho biết, nó chính là cha
của ngươi. Vì sao nó nằm lì suốt ngày đêm ở khoảnh đất sát cửa đó? Ấy là vì nó
luyến tiếc của cải chôn dưới đất. Hãy đào lên". Người con lấy làm lạ, cho
đào thử chỗ con chó thường nằm, thì quả nhiên thấy hũ vàng bên dưới. Bị rúng
động vì việc này, người con tỉnh ngộ, từ chối sở hữu số vàng, rời nhà theo vị
đại sư lên núi, về sau trở thành một trong những vị tổ đầu tiên của lịch sử
Thiền tông. Vị này tỉnh ngộ rằng: nếu làm phước, được phước mà thiếu huệ tức
trí huệ sẽ trở nên nguy hiểm ngu si như con chó kia vậy. Được phước, thiếu huệ,
thì như nằm trên đống vàng, đống ngọc mà vẫn khổ đau, thiếu thốn, phiền bực. Kể
xong, vị thần bảo: "Đó là lý do vì sao ta phải xóa trắng chữ phước trong
bao lì xì mừng tuổi của các ngươi. Nó chỉ có ý nghĩa tốt đẹp nếu sinh đôi cùng
huệ, bằng không chỉ là động lực cho những cuộc thăng trầm bất tận. Giờ đây
ngươi hãy nhìn xem".
Bốn cha con thấy trên bao lì xì hiện lên
hai chữ Phước Huệ. Hai chữ này để mừng tuổi cho mọi tâm hồn đã đi qua mùa đông
để mở đầu một năm mới thăng hoa.
Võ Thị Điềm Đạm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét