BICH TRAM
▼
Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013
197/Sót lại
còn lại gì sau cái vẫy tay từ biệt
một giờ mười lăm phút
chân trời chia hai
nước ngăn ngắt xanh
chiều hun hút tím
con tàu mang anh đi đã thành dấu chấm
thành phố như phù điêu chết lặng
mái ngói xô nghiêng
nỗi buồn chực ngã
lá rưng rưng rơi
dòng tên hóa đá
từng bóng người qua
nụ cười sa mạc
em mãi lang thang chẳng gặp bóng mình
chỉ phút giây thôi
cây đã già nghìn tuổi
đừng nói gì với em
đừng gửi gì cho em
cứ để lụi tàn như những gì phải có
em biết
ngày mai khi mình thức dậy
còn sót bên thềm
nỗi nhớ sinh sôi
Vũ Thanh Hoa
196/ Hồn quê
Vẫn quyết xuôi dòng
Vắt ngang
Đồng lúa trỗ
Nóng tháng mười
Màu trăng
Hương đất
Mùi mưa
Bốn mùa cây trái say xưa
Uống vào
Bỗng nhiên
Khát
Đến cồn cào
Giấc ngủ thơ bé
Cồn cào lời ru
Ập ù vài tiếng chim cu
Bến ao bầy ốc đánh đu lá dừa
Khát
Đến cồn cào
Giấc ngủ thơ bé
Cồn cào lời ru
Ập ù vài tiếng chim cu
Bến ao bầy ốc đánh đu lá dừa
Ta khôn lớn mấy cũng thừa
Lời ru vẫn trắng
Nắng trưa vẫn vàng
Bao năm cau đứng hai hàng
Giàn trầu vẫn cứ mỡ màng trong mưa
Đổi tuổi già lấy nội xưa
Chặn cơn gió
Nhốt nắng mưa mỗi ngày
Uống sương gió
Để rồi say
Quê nhà muôn thưở nồng – cay vẫn còn
Đậu già quấn quýt mướp non
Nội canh giấc ngủ
An toàn ấu thơ
Trứng gà ôm ấp lá mơ
Đẻ ra trong sáng, ngây thơ
Hồn người...
Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
195/ BÀI VIẾT VỀ NGƯỜI LÍNH TRƯỜNG SƠN
Nguyễn Thị Bích Trâm
Baì 1: Cảm nhận về nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Thấm thoắt đã ba mươi hai năm kể từ ngày đất nước thống nhất. Cuộc sống thanh bình, ấm no và hạnh phúc hôm nay đã đánh đổi bằng xương máu của bao thế hệ cha anh. Vẫn còn âm vang đâu đây không khí hào hùng của những trận tuyến chống quân thù.Và hình ảnh một Trường Sơn hùng vĩ mang chí lớn của biết bao người con trung dũng kiên cường lại như hiện về trong ký ức trong lòng ngưỡng mộ của bao thế hệ. Nhà thơ Tố từng ca ngợi những con người quả cảm ấy
Baì 1: Cảm nhận về nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Vâng! Một thời Trường Sơn ác liệt đạn bom, một
thời Trường Sơn huyền thoại in dấu chân của bao thế hệ cha anh “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Có
biết bao những trang văn viết về người chiến sĩ Trường Sơn nhất là nữ thanh
niên xung phong đã khơi gợi trong chúng ta nhiều xúc cảm. Ác liệt mà vẫn bình
yên…? Dạn dày mà vẫn rất tinh nhạy? Nữ tính mà vẫn can trường…? Tất cả được khắc hoạ từ ngòi bút của nhà văn
Lê Minh Khuê qua truyện ngắn “Những ngôi
sao xa xôi”. Hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong với những vẻ
đẹp hồn nhiên vốn có của tuổi trẻ Việt Nam trong thời chống Mỹ đã tỏa sáng lấp
lánh. Đẹp nhất là ánh sao xa từ vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của cô thanh niên
xung phong Phương Định.
Những ngôi sao xa xôi là một trong những
truyện ngắn đầu tay của Lê Minh Khuê, viết năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến
chống Mĩ của dân tộc diễn ra ác liệt nhất. Truyện kể về một tổ trinh sát mặt
đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn gồm ba cô gái: Phương
Định, Nho và Thao. Họ ở cách xa đơn vị, dưới một cái hang ở chân cao điểm.
Nhiệm vụ là quan sát máy bay địch ném bom, đo đất đá, san lấp hố bom, đo tọa độ
những trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc vô cùng nguy hiểm, suốt ngày họ
phải chạy trên cao điểm và đối mặt với cái chết. Mặc dù vậy, họ vẫn sống hồn
nhiên, yêu đời và gắn bó, yêu thương nhau.
Mặc dầu sống trong hoàn cảnh ác liệt của chiến trường,
Phương Định – cô thanh niên xung phong vẫn mang nét đẹp tâm hồn nhạy cảm, hồn nhiên, trong trẻo, giàu mơ mộng, lạc quan.
“Đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn
lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy.
Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc
thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Đó là hiện thực đầy
mùi chiến tranh, không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy thần chết luôn rình
rập. Con đường mang biết bao thương tích vì bom đạn giặc. Vậy mà Phương Định
cùng những người đồng đội của mình ở trong một cái hang dưới chân cao điểm,
giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa ấy, nơi tập trung
nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm và ác liệt.
Người
đọc không thể không ngỡ ngàng khi cô thanh niên xung phong trong tổ trinh sát
mặt đường ấy lại là một là nữ sinh của thủ đô thanh lịch bước vào chiến
trường. Thời học sinh – cái thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vô tư
sống bên mẹ trong một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh thành kỉ niệm đẹp
trong cô. Chiến tranh khốc liệt căng thẳng ư? Mặc! Những hoài niệm về thời học
trò thật đáng yêu ấy luôn sống trong cô ngay giữa chiến trường làm tươi mới một
tâm hồn ẩn chứa những khát khao.
Và có lẽ chúng ta ai muốn nhìn xa rồi lại ngắm
gần một Phương Định đáng yêu trẻ trung và xinh xắn với “hai bím tóc
dày tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn” và “đôi mắt nâu nâu dài dài hay nheo lại như
chói nắng, hay có cái nhìn xa xăm”. Đó là thiếu
nữ có một ngoại hình phảng phất dáng dấp thanh lịch của một thiếu nữ Hà Thành.
Nếu nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn thì nhìn vào đôi
mắt của Phương Định ta cảm nhận một tâm hồn rất lãng mạn, mơ mộng và cũng rất hồn
nhiên.
Là con gái đấy mà! Phương Định rất nhạy cảm và quan
tâm đến hình thức của mình. Biết mình
đẹp, cô thích ngắm mình trong gương, có chút kiêu ngầm khi biết mình được các
anh pháo thủ và lái xe thăm hỏi. Cô vui và tự hào về điều đó nhưng không hay
biểu lộ tình cảm của mình mà thường rỏ ra kín đáo giữa đám đông. Phương Định không săn sóc vồn vã, cô vẫn hay đứng ra xa,
khoanh tay trước mặt và nhìn đi nơi khác mỗi khi một đám con gái xúm lại đối
đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy. Một hành động đó thôi đã làm Phương
Định trở nên thật kiêu kì, cái điệu của cô thật đáng yêu và cũng thật phù hợp
với một người con gái như vậy.
Tâm hồn yêu đời lạc quan của cô giữa Trường
Sơn đạn lửa thật làm cho người ta càng ngạc nhiên hơn. Sau những giây phút căng thẳng ở cao điểm,
xong việc là thở phào chạy vào hàng, là sà ngay vào một thế giới khác – thế
giới con gái với những mơ mộng: nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe
ca nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ… Yêu đời lạc quan làm nên “Tiếng hát át tiếng bom” ở cô. Cô mê hát
và hát mọi lúc, mọi nơi. Lại còn bịa ra lời mà hát, hát cả khi có sự im lặng không bình thường, “tiếng máy bay trinh sát rè rè”. Phải
chăng trong tiếng hát, có ý thức về lý tưởng, có khao khát về quê hương,
tình yêu của tuổi trẻ và có cả khát vọng được trở về cuộc sống thanh bình.
Có lẽ
thích nhất là được hòa cùng những cảm xúc trong tâm hồn cô khi cô đón nhận một cơn mưa đá bất ngờ. Không phải là cô gái căng thẳng, hồi hộp tột độ khi phá
bom mà là một thiếu nữ hồn nhiên trong sáng với niềm vui con trẻ òa nở, cuống
cuồng: “Mưa đá! Cha mẹ ơi! Mưa đá!”. Thế là những kỷ niệm tuổi thơ ào ạt, trào
dâng với hình ảnh thân thương về thành phố, quê hương, về gia đình, về
tuổi thơ. “Người mẹ, cái cửa sổ ngôi nhà,
những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, con đường nhựa sau cơn mưa, những
ngọn đèn trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích
nói về xứ sở thần tiên”. Tất cả vừa rõ ràng, vừa mờ ảo; vừa đồng hiện, vừa
vụt hiện trong tâm trí; vừa gần gũi, vừa xa xôi và xoáy mãnh liệt, dữ dội như
con mưa đá.
Không chỉ mang hành trang từ
vẻ đẹp tâm hồn đáng yêu, sức mạnh để cô gái nhỏ bé Hà Nội kia đối mặt với
công việc đặc biệt nguy hiểm chính là tinh thần dũng cảm, gan góc vượt lên trên
hiểm nguy và tình đồng đội nồng ấm chân thành. Những hiểm nguy nào có sá gì. Bởi mang
nặng tình yêu tổ quốc, cô ra đi mà không tiếc tuổi thanh xuân. Rời ghế nhà trường
phổ thông, Phương Định xung phong ra mặt trận. Phương Định nghĩ về hoàn cảnh
sống nơi đây một cách giản dị và cho là có cái thú riêng: “… đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay
đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chảo”. Nhiệm
vụ phá bom gian khổ, hi sinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức. Vậy
mà cô kể về nó với giọng điệu bình thản, pha
sự hóm hỉnh: “Quen rồi. Một ngày chúng
tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Thật là biết cười trên gian
khó!
Điều gì đã làm nên sức mạnh bản lĩnh của cô phải chăng bên
cạnh nét đẹp của một tâm hồn đáng yêu, đầy chất nữ tính ấy còn là một Phương
Định dũng
cảm, gan góc vượt lên mọi hiểm nguy. Sau những đợt thả bom của giặc,
Định cùng đồng đội chạy lên cao điểm để làm nhiệm vụ. Không gian lúc đó vắng
lặng đến phát sợ. Nhưng cô không hề sợ hãi. Cô có cảm giác như các chiến sĩ
đang dõi theo mình, vì vậy mà cô cảm thấy an tâm hơn. Cô quyết định không đi
khom, bởi một lý do rất đơn giản “Các anh
ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới.” Cảm
giác ấy vừa thể hiện lòng tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm vượt
qua mọi hiểm nguy. Đối với cô, cái
chết thì cô có nghĩ đến nhưng lại là “một
cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, mà cô quan tâm nhất là liệu bom có nổ hay
không, không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai, cô luôn đặt nhiệm vụ của
mình lên hàng đầu. Và trong những lúc phá bom như vậy, ta vẫn còn thấy thấp
thoáng cái sự nhạy cảm, tinh tế trong cảm xúc của cô, “một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và
bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu
hiệu chẳng lành.”, phải là một người bình tĩnh gan góc mới có được những
cảm nhận chân thực như vậy. Chính những lúc đó, ta mới thấy được cái sự
dũng cảm đến lạ thường của cô gái.
Mạnh
mẽ kiên cường, liệu tình cảm trong cô có khô khan? Không! Tình đồng đội dành cho chị Thao và Nho mới ấm
áp làm sao? Cô lo lắng cho chị
Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến nỗi “nói
như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho
như biết về những chị em ruột thịt. Còn với Nho, cô em út của tổ trinh sát thì
Phương Định rất muốn bế trên tay “trông
nó nhẹ mát như một que kem trắng”. Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái
nhìn ấy. Khi Nho bị thương, cô vỗ về và chăm sóc tận tình: “moi đất, bế Nho đặt lên đùi” “rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp
than” “tiêm cho Nho” rồi “pha sữa
trong cái ca sắt…”. Đặc biệt, cô
dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp ngày đêm
trên con đường ra mặt trận. Với cô “những
người đẹp nhất, thông minh, cam đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân
phục có ngôi sao trên mũ”. Tình cảm ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để cô
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ nhất chân thực, linh
hoạt, cốt truyện đơn giản, tình huống truyện hợp lý và việc sử dụng nghệ thuật
miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc, “Những ngôi sao xa xôi” đã ca ngợi vẻ đẹp của những
cô gái đã “Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng” (Tố
Hữu). Mang nét trẻ trung của một tâm hồn trong
sáng, hồn nhiên và đầy mơ mộng nhưng lại là một cô thanh niên xung phong dũng
cảm, gan dạ, sâu sắc tình đồng đội, Phương Định xứng đáng là đại
diện của thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ.
“Những ngôi sao xa xôi”, những con người
được ví như những vì sao lấp lánh giữa bầu trời đêm. Một thứ ánh sáng không rực rỡ mà sáng trong, tưởng như
xa mà lại rất gần, “xa xôi” là bởi vì phải ngắm nhìn
thật kỹ thì mới có thể thấy được những tâm hồn cao đẹp ấy. Ba cô gái
thanh niên xung phong đặc biệt là Phương Định, trái tim hồng của cô, “ngôi sao xa xôi” mãi mãi lung
linh, toả sáng lấp lánh trên đỉnh cao Trường Sơn, xa xôi mà gần gũi
trong lòng yêu thương cảm phục của mọi người, mọi thời đại như lời thơ:
Đêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói, lung
linh...”
(Khoảng trời hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Bài 2: Vẻ đẹp người chiến sĩ qua bài thơ tiểu đội xe không kính.
Nguyễn Thị Bích Trâm
Nguyễn Thị Bích Trâm
Thấm thoắt đã ba mươi hai năm kể từ ngày đất nước thống nhất. Cuộc sống thanh bình, ấm no và hạnh phúc hôm nay đã đánh đổi bằng xương máu của bao thế hệ cha anh. Vẫn còn âm vang đâu đây không khí hào hùng của những trận tuyến chống quân thù.Và hình ảnh một Trường Sơn hùng vĩ mang chí lớn của biết bao người con trung dũng kiên cường lại như hiện về trong ký ức trong lòng ngưỡng mộ của bao thế hệ. Nhà thơ Tố từng ca ngợi những con người quả cảm ấy
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy
tương lai
Qủa đúng như thế, một Trường Sơn ác
liệt đạn bom, một Trường Sơn đầy chông gai thử thách là nơi để những chàng
“Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” làm
nên những kỳ tích. Trên những con đường Trường Sơn cheo leo, hiểm trở đầy mưa
bom bão đạn, những đoàn xe vận tải lương thực, khí giới vẫn chạy băng băng phục vụ cho chiến trường Miền
Nam. Điều kỳ diệu ấy có được bởi vẻ đẹp
tinh thần, tình cảm của những người chiền sĩ lái xe. Chất thơ trong hiện thực
đầy khốc liệt đã được đưa vào thơ từ hồn thơ nhạy cảm của nhà thơ Phạm Tiến
Duật qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Không có kính không phải vì xe không có
kính
..........................................................
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013
194/ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG"
Trong
văn học Việt Nam
đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kì,
song được tôn vinh ” thiên cổ kì bút ” thì đến nay chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục
của Nguyễn Dữ.
Trong tập truyện ấy, tác
phẩm Chuyện người con gái Nam Xương được
xem như đặc sắc nhất vì đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa.
Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc
niềm cảm thương sâu sắc. Vũ Nương, một thiếu phụ đức hạnh vẹn toàn phải chịu
nỗi oan khuất đành phải chọn cái chết để giải tỏ.
193/Tiễn em vào đaị học
Tặng một học trò của tôi
Em lên tàu vào một buổi chiều thu
Tôi đứng lặng dưới sân ga, lá bàng rụng đỏ...
Tàu đưa em qua bao miền nắng gió
Đến với giảng đường đại học ở phương Nam.
Tôi trở về với kí ức thời gian
Trong đám học trò em hiện lên rõ nhất
Bởi ở em có một điều rất thật
Gia đình nghèo em lại biết vươn lên...
Mai em bước vào buổi học đầu tiên
Xin chúc em những điều tươi đẹp nhất.
Nhưng em ạ, thời gian như chớp mắt.
Hãy cố gắng hết mình, đừng một phút lãng quên.
Tôi qua rồi cái tuổi hoa niên
Mà nỗi nhớ tuổi học trò vẫn còn như lửa...
Một sắc phượng hồng vấn vương trên cỏ
Gửi theo em vào lớp sớm mai này...
Rồi cuộc đời em sẽ mãi bay xa
Em sẽ tới những chân trời cao rộng.
Hãy nhớ nhé, cậu học trò bé bỏng
Nghĩa thầy cô sâu nặng ân tình.
Hoàng Thị Thúy Nga-trường THCS Trần Phú -Phú Ninh
192/ THẦY TÔI
Tặng thầy Phạm Xuân Trí
Hơn ba mười năm đứng trên bục giảng
Hoa phấn rơi điểm bạc mái tóc thầy
Chăm sóc cây đời không một phút nghỉ
tay
Tuổi tròn sáu mươi thầy về dưỡng sức
Chẳng thể nào quên những tháng ngày cơ
cực
Sắn lát, bo bo bầu bạn với măng rừng
Vất vả, nhọc nhằn cõng nặng trên lưng
Vẫn động viên nhau không rời bục giảng
Đốt cháy tim mình thầy làm nên ánh sáng
Cho các em đi khỏi lạc lối đường dài
Rút hết ruột tằm thầy gởi tương lai
Bao học trò lớn khôn đi mọi miền đất
nước
Giữa chợ đời bon chen xuôi ngược
Người ta rao bán, rao mua chẳng thiếu
thứ gì
Chỉ có một điều thầy dạy con ghi
Chữ “Nhân” làm người con ơi giữ lấy...
Giữa bão táp cuộc đời thầy tôi vẫn vậy
Độ lượng, hiền từ, giản dị, thanh cao.
Huỳnh Cẩn -trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013
191/ Vấn đề học văn của học sinh hiện nay
Tôi có đọc bài: “Học văn - thực trạng cần báo động” của tác giả Khánh Hòa đăng trên báo Giáo dục và Thời đại - số 147 (trang 9). Tôi đồng ý với nhận xét của tác giả Khánh Hòa nêu ra: "Học sinh bây giờ không thích học văn", tác giả có dẫn giải đưa ra một số dẫn chứng để chứng minh, thống kê bằng con số: 50% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông không biết viết một bài làm văn theo đúng yêu cầu, viết sai chính tả, ngữ pháp, câu văn không gãy gọn. Luyện khá kỹ các thao tác văn nghị luận chứng minh, giải thích, bình luận, v.v... vậy mà tất cả vô hiệu hóa...
Sau đó tác giả nêu nguyên nhân học sinh không thích học văn: thờ ơ, coi thường môn văn (có cả các bậc phụ huynh), thực dụng với những ngành học mà sau này làm ra tiền...Đọc bài của tác giả Khánh Hòa có nhiều thầy cô giảng dạy bộ môn Ngữ văn thấy đau xót vô cùng về thực trạng học văn của học sinh phổ thông hiện nay, không những không thích học mà còn rất lười. Bởi vậy "vấn đề học văn của học sinh phổ thông cần được bàn thêm".
Tôi rất thông cảm với tâm trạng của tác giả Khánh Hòa và góp thêm một số ý kiến về thực trạng học văn của học sinh hiện nay: rất lười, bài không soạn (có lớp đạt con số kỷ lục 70% - 80%). Khi hỏi bài soạn đâu có em thản nhiên trả lời: “để quên ở nhà”, thầy cô bảo cho về lấy thì các em lấy lý do là nhà ở xa, v.v... Chẳng những thế câu trả lời còn thiếu từ "em" là chủ ngữ, vở ghi chép lung tung, có bài ghi một phần rất nhỏ xong để đấy, đa số ghi chữ được chữ chăng, không chú ý nghe giảng, thích cười đùa nói chuyện mất trật tự hay nói tục chửi bậy (thậm chí có em ghi một quyển cả văn, toán, ngoại ngữ...), ý thức học tập rất yếu. Tuy vậy, có một số em thích học văn, con số này chiếm tỷ lệ rất nhỏ, đa số là các em nữ. Có nhiều em một câu ca dao rất quen thuộc, hay câu thơ cũng không biết, như câu:
"Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền".
Khi gọi các em lên đọc bài, có em đọc từ “về” thành từ “tôi”, từ “thì” thành từ “ta”, không hiểu các em cố tình xuyên tạc đi như thế hay là các em không thuộc bài, làm cho câu ca dao mất cái hay, cái vẻ duyên dáng trữ tình, sai lệch cả nội dung - nhiều thầy cô kêu ca không chịu nổi, tức "anh ách", ấy là tôi chưa kể đến vấn đề các em phân tích nội dung và nghệ thuật của câu ca dao, đã có em phân tích theo kiểu: “chữ tác ra chữ tộ - i hi ra ô hô” làm sai lệch nội dung câu ca dao đẹp như vậy, hay như vậy? Thật đáng buồn.Còn kiến thức để làm bài tập làm văn thì ra sao? Rỗng tuếch. Khi thầy cô ra đề, lần nào các em cũng kêu là đề khó (kể cả đề dễ). Các em chỉ thích các thầy cô "bầy cỗ sẵn' để "chọn miếng ngon ăn" - các em thích có dàn bài thầy cô làm sẵn còn các em chẳng chịu làm dàn bài bao giờ, cho nên kết cấu bài văn không chặt chẽ, ý không lôgic là thế hoặc giở tài liệu có sẵn ghi chép vào bài làm (chép những chỗ gần giống vào bài).
Thật vô cảm, không chịu động não suy nghĩ gì cả. Học bài thì dập khuôn, làm bài thì thiếu hình ảnh và từ ngữ hay, thích sao chép làm cho bài văn thiếu sinh động, mất vẻ đẹp mượt mà, trong sáng. Trên tờ giấy chỉ là những con chữ, dòng chữ giấy trắng mực đen thật khô khan, không có hồn. Khi diễn đạt câu ca dao “Ai ơi bưng bát cơm đầy”, có em diễn đạt thật ngô nghê, diễn nôm, câu viết dài dòng, lặp từ... Ví dụ "đây chính là lời khuyên mà người nông dân nói với mọi người rằng họ lao động vất vả lắm mới có bát cơm đầy, nên phải nhớ ơn họ khi bưng bát cơm đầy". Học sinh chưa thấy được việc học văn là để giáo dục lý tưởng, tình cảm, bồi dưỡng tính nhân bản, nhân văn của con người.Theo tôi, việc học sinh phổ thông hiện nay không thích học văn, lười học có một số nguyên nhân sau:
- Học sinh ít đọc sách, không chịu học bài, soạn bài để tăng thêm vốn sống, vốn văn học, vốn hiểu biết để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương.
- Thời đại công nghiệp điện tử phát triển, các em bị cuốn hút vào các chương trình Intemet, trò chơi điện tử, các đĩa hát, băng nhạc...
- Thời kỳ kinh tế thị trường làm cho con người thực tế và thực dụng hơn với các bộ môn khoa học tự nhiên dễ kiếm ra lợi nhuận...
- Ý chí học tập của học sinh chưa cao, chưa có quyết tâm và ý chí tiến thủ, chưa say mê.Rõ ràng học sinh phổ thông hiện nay chưa thấy được tác dụng của việc học tập bộ môn ngữ văn là cần thiết cho việc giao tiếp hàng ngày, cho việc diễn đạt hành văn các bộ môn khoa học khác như toán, lý, hóa, sử, địa... nhất là những bộ môn sử dụng nhiều đến lý thuyết rất cần cách diễn đạt lập luận rõ ràng.
Hơn nữa các em chưa thấy được tầm quan trọng của câu nói "Văn học là nhân học" nghĩa là văn học là khoa học về con người, tức là học cách làm người, nên việc học tập bộ môn Ngữ văn bị các em chểnh mảng hoặc lãng quên.
Thật vô cảm, không chịu động não suy nghĩ gì cả. Học bài thì dập khuôn, làm bài thì thiếu hình ảnh và từ ngữ hay, thích sao chép làm cho bài văn thiếu sinh động, mất vẻ đẹp mượt mà, trong sáng. Trên tờ giấy chỉ là những con chữ, dòng chữ giấy trắng mực đen thật khô khan, không có hồn. Khi diễn đạt câu ca dao “Ai ơi bưng bát cơm đầy”, có em diễn đạt thật ngô nghê, diễn nôm, câu viết dài dòng, lặp từ... Ví dụ "đây chính là lời khuyên mà người nông dân nói với mọi người rằng họ lao động vất vả lắm mới có bát cơm đầy, nên phải nhớ ơn họ khi bưng bát cơm đầy". Học sinh chưa thấy được việc học văn là để giáo dục lý tưởng, tình cảm, bồi dưỡng tính nhân bản, nhân văn của con người.Theo tôi, việc học sinh phổ thông hiện nay không thích học văn, lười học có một số nguyên nhân sau:
- Học sinh ít đọc sách, không chịu học bài, soạn bài để tăng thêm vốn sống, vốn văn học, vốn hiểu biết để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương.
- Thời đại công nghiệp điện tử phát triển, các em bị cuốn hút vào các chương trình Intemet, trò chơi điện tử, các đĩa hát, băng nhạc...
- Thời kỳ kinh tế thị trường làm cho con người thực tế và thực dụng hơn với các bộ môn khoa học tự nhiên dễ kiếm ra lợi nhuận...
- Ý chí học tập của học sinh chưa cao, chưa có quyết tâm và ý chí tiến thủ, chưa say mê.Rõ ràng học sinh phổ thông hiện nay chưa thấy được tác dụng của việc học tập bộ môn ngữ văn là cần thiết cho việc giao tiếp hàng ngày, cho việc diễn đạt hành văn các bộ môn khoa học khác như toán, lý, hóa, sử, địa... nhất là những bộ môn sử dụng nhiều đến lý thuyết rất cần cách diễn đạt lập luận rõ ràng.
Hơn nữa các em chưa thấy được tầm quan trọng của câu nói "Văn học là nhân học" nghĩa là văn học là khoa học về con người, tức là học cách làm người, nên việc học tập bộ môn Ngữ văn bị các em chểnh mảng hoặc lãng quên.
Sưu tầm
Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013
190/ Nợ
Khi người ta bảo em điên
là lúc em khôn
Nơi tinh tuý tận cùng sự thông minh
em hiểu
Em yêu anh nhiều như thế
Gai hoa hồng đâm giọt máu chảy thành thơ
là lúc em khôn
Nơi tinh tuý tận cùng sự thông minh
em hiểu
Em yêu anh nhiều như thế
Gai hoa hồng đâm giọt máu chảy thành thơ
Khi người ta bảo em khôn
là lúc em điên
Trong vật vã, cuồng say, quắt quay
em biết
Em yêu anh nhiều biết bao
Em là kẻ tử tù chẳng trốn khỏi nhà lao
Tự cài then, còng tay ngồi chờ bản án
Là hành khất lỡ đường chẳng còn gì để bán
Em bán trái tim mình
Anh nợ suốt đời anh
là lúc em điên
Trong vật vã, cuồng say, quắt quay
em biết
Em yêu anh nhiều biết bao
Em là kẻ tử tù chẳng trốn khỏi nhà lao
Tự cài then, còng tay ngồi chờ bản án
Là hành khất lỡ đường chẳng còn gì để bán
Em bán trái tim mình
Anh nợ suốt đời anh
Vũ Thanh Hoa
189/ Phố thở
mở cửa ngày
sáng nghe phố thở
những bàn chân len chen bước
những bánh xe quay vòng
quay vòng
những mặt người kín mít khẩu trang
tay đeo găng
đầu bảo hiểm
tiếng còi xe xé thượng tầng khí quyển
chuông điện thoại thăng trầm
thăng trầm
em lẫn vào thế giới mộng du
múa theo điệu valse của nộm
cười nụ kỹ thuật số
phát âm lập trình
lập trình
rót nắng ngập đáy ly ngày
ngày rơi
đáy rỗng
trả khói bụi về màn hình computer trắng
đêm nghe phố thở
em lạc trong giấc mơ anh…
Vũ Thanh Hoa
Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013
188/ CỬA SỔ
Cửa sổ để em nhìn vào khoảng trống
Để mở ra trời nắng
Để khép lại trời mưa
Và trong những ngày sương mù
Em chờ anh gõ cửa
Để mở ra trời nắng
Để khép lại trời mưa
Và trong những ngày sương mù
Em chờ anh gõ cửa
Dẫu rằng em không còn anh nữa
Hề chi mà buồn với lẽ ở – đi
Hề chi mà đau
Hề chi mà xa xót
Hề chi mà buồn với lẽ ở – đi
Hề chi mà đau
Hề chi mà xa xót
Em- những ngày mộng mị
Là những ngày trống vắng niềm tin
Ô cửa sổ vẫn sơn màu xanh
Vẫn vì anh mà xanh
Là những ngày trống vắng niềm tin
Ô cửa sổ vẫn sơn màu xanh
Vẫn vì anh mà xanh
Và trong cơn mưa lá rũ không đành
Em ngồi hát lời cây từ cửa sổ
Ngay cả lúc nỗi đợi chờ tan vỡ
Em nghiêng đời em qua mỗi chấn song
Em ngồi hát lời cây từ cửa sổ
Ngay cả lúc nỗi đợi chờ tan vỡ
Em nghiêng đời em qua mỗi chấn song
Trên trời cao còn có một dòng sông
Còn tha thiết yêu một vì sao lạc
Còn tha thiết yêu một vì sao lạc
Em dẫu không còn anh
Dẫu là anh đã khác
Rồi hư ảo như trời
Rồi cứ thế căn phòng vừa khép cửa
Người mở lòng ra mà bước tới không cùng.
Người mở lòng ra mà bước tới không cùng.
Tác giả: Bình Nguyên Trang
Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013
187 ME ƠI !
Gà gáy
Me trở dậy
nhen lửa ấm sớm ngày
ngồi đợi bình minh.
Bóng chiều ngả mình
dáng me gầy lá đổ
đoạn từng nhánh củi
phơi giàn đầy
quên thân cò một đời lặn lội
hoàng hôn cần những phút
thảnh thơi
Đông đang qua me nào có biết
xuân các con vắt kiệt nhựa
mai già
Con của me đã giờ ở nơi xa
cửa rộng nhà cao rộn ràng phố
xá
Me chẳng muốn xa vườn xưa quê
cũ
chẳng muốn dùng bếp điện, bếp
ga
chẳng bỏ được thói quen dậy
sớm
chẳng thể nào không tiếc cây củi tươi.
Me không là me
Chúng con chẳng bằng cát bụi…
Me ơi !
Nguyễn Thị Bích Trâm
186/ CHÂN DUNG NGƯỜI THẦY
Kinh tặng thầy giáo Ninh
Văn Thới Trường THCS Nguyễn Văn Trỗi
Trọn một đời đến lớp,
Không
phấn trắng bảng đen.
Bục giảng là sân bãi,
Tràn
ngập ánh nắng vàng.
Giọt nắng cứ long lanh,
Làn da ngăm ram ráp.
Mồ hôi rơi thánh thót,
Ướt
đẫm lưng áo thầy.
Niềm vui lại đong đầy,
Rộn
ràng mùa Hội Khỏe.
Thầy như là mãi mãi,
Trẻ
lại tuổi đôi mươi.
Tươi rói những nụ cười,
Ngời
niềm tin chiến thắng.
****
Làm sao cho ánh nắng,
Đừng
tắt lúc chiều tà?
Hoàng hôn đừng vội vã,
Để
ngày buồn rưng rưng.
Làm sao níu mùa xuân,
Trên
cành mai nở rộ?
Hạ ơi đừng đi vội,
Cánh
phượng hồng buông rơi.
****
Thời gian cứ mãi trôi,
Dòng
người cứ hối hả.
Thời gian như ngọn gió,
Thổi
qua đời mênh mông.
Vẫn mãi là sông dài,
Vẫn mãi là
biển lớn.
Bóng dáng thầy chiều sớm,
Vằng
vặc nơi mái trường.
Để lòng ai vấn vương,
Để
tình thương dào dạt.
Một chiều nghe câu hát,
Lòng
bồi hồi xốn xang!
Phạm
Thị Sen (Nguyễn Văn
Trỗi)
185/ CÔ BÉ BÁN DIÊM - TIẾNG LÒNG ĐỒNG VỌNG
Soạn
giảng Cô bé bán diêm*
Ngoài
kia trời đã sang đêm lâu rồi.
Đêm
xuân phẳng lặng như tờ,
Mà
sao trang viết từng lời xốn xang.
Chuyện
kể thời An-đec-xen,
Có
em bé gái bán diêm giao thừa.
Rao
hoài người chẳng ai mua,
Que
diêm cháy-tắt, một đời thiên thu.
Tôi
gặp em bé giọng rao buồn buồn.
Người
ta bán đất, bán rừng,
Em lùng
khắp chợ bán từng lọn rau.
Ngày
xuân áo mỏng cánh nâu,
Tiếng
rao lạc giữa Hà Châu mịt mùng.
Thương
em mua bó rau rừng,
Mua
cho em cả bão bùng ngày thơ.
Bát
canh tím sẫm mồng tơi,
Mà
sao mặn chát giọt mồ hôi em.
Chuyện kể thời An-đec-xen,
Và chuyện tôi kể về em một chiều.
Bài giảng chất chứa thương yêu,
*Cô bé bán diêm: Truyện ngắn của nhà văn An-đec-xen, SGK Ngữ văn 8, tập
2
HỒ VĂN HIỆP
(GV
trường THCS Nguyễn Văn Trỗi, Phú Ninh, Quảng Nam )
Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013
184/ MỘT SỐ HÌNH ẢNH DÃ NGOẠI Ở BIỂN TAM THANH CỦA TRƯỜNG THCS NGUYỄN HIỀN
Ngày 8-3-2013 -một ngày thật đẹp trời trường tôi tổ chức tham quan dã ngoại ở bãi biển Tỉnh thủy Tam Thanh . Sau phần nghi lễ chúng tôi bắt đầu chương trình ca nhạc và ẩm thực .Không khí thật sôi nổi ,vui vẻ và cũng rất đầy tâm trạng qua những ca khúc về chủ đề tình yêu và biển ... trong một dàn nhạc vô cùng hoành tráng. Chương trình ẩm thực được tổ chức gọn nhẹ mà nhiều lần nhưng rất khoái khẩu với những món hải sản đặc biệt: ốc gạo ,cá hấp ,mực hấp , sứa trộn ... Ra về vẫn có ngừơi còn luyến tiếc "ngày 8-3 sao ngắn quá" . Một ngày không thể nào quên.