A/ KHÁI QUÁT
1. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
Hình tượng
là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức
những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm
tính. Hình tượng văn học trong các tác phẩm luôn là phương tiện hình thức để
nhà văn bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình . Mỗi nhà văn
khi cầm bút phải không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình tượng nhân vật
tiêu biểu đặc sắc. Không phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học.
Không phải nhân vật nào trong tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng nhân
vật văn học. Để trở thành hình tượng văn học điều kiện tiên quyết là phải có
tính điển hình. Trong văn học, hình tượng nhân vật phải là: nhân vật điển hình
trong hoàn cảnh điển hình. Nghĩa là nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung
khái quát cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng lớp, giai
cấp... mà mình đại diện. Và bối cảnh xã hội mà nhân vật ấy xuất hiện phải là
bối cảnh điển hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định.
Như vậy: hình tượng nhân vật trong văn học là nhân vật điển hình trong tác phẩm
văn học, mang đậm nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng
thời là nhân vật có những nét riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển
hình mà tác phẩm văn học ấy thể hiện.
2. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Trong
giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVI – thế kỉ
XIX, ở nước ta do điều kiện xã hội đặc biệt của nó mà trong văn học dân tộc ta
hình thành một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Trong trào lưu văn học này, lần đầu
tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong nhiều tác
phẩm của nhiều tác giả: Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm có người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm; Nguyễn Gia
Thiều có người cung nữ trong Cung
oán ngâm khúc; Nguyễn Du có Thúy Kiều trong Truyện Kiều; Nguyễn Dữ có Vũ
Nương trong Chuyện người con gái Nam
Xương ; trong những truyện Nôm của những nhà thơ khác như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang…cũng
có những cô gái như Dao Tiên, Quỳnh Thư…Nhưng điểm lại những nhân vật phụ nữ trong
giai đoạn này, hầu như tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý phái, ngay cả Thúy
Kiều của Nguyễn Du cũng được nhà thơ giới thiệu là: “Gia tư nghĩ cũng thường
thường bậc trung”(truyện Kiều). Chỉ có hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân
Hương, Vũ Nương trong Truyện của Nguyễn Dữ ta mới bắt gặp những người con gái
của tầng lớp bình dân.
Trong dòng
chảy quan niệm Việt Nam,
người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại cũng hiện diện trong một vẻ đẹp toàn
diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là một sự kết hợp hài hoà giữa sắc – tài –
tâm, giữa nhan sắc và đức hạnh với “tam tòng, tứ đức”. Như vậy, ngay trong cái
nền chung trong quan niệm về người phụ nữ đẹp của người Việt đã có một sự “dị
biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm mỹ vốn là một phạm trù
“phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác – Lênin). Cho nên, mỗi một thời
đại, tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có những quan niệm khác nhau. Thời
trung đại, với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt là văn hoá Trung Hoa, tư tưởng của
Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo đã chi phối đến quan niệm thẩm mỹ của thời
đại. Người phụ nữ có đức hạnh theo quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến)
là người phải hội tụ đủ “tam tòng, tứ đức” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử; và công, dung, ngôn hạnh).
Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của
tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại được biểu hiện không giống nhau. Đó là
nàng Kiều (Truyện Kiều), người được xem là người đàn bà đẹp nhất trong
văn học Việt Nam.
Nếu đặt Kiều vào trong lễ giáo phong kiến thì Kiều không phải là người phụ nữ
đức hạnh, nhưng không vì thế mà dân tộc ta phủ nhận vẻ đẹp của Kiều từ ngoại
hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp còn bởi tấm lòng nhân
hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà Nguyễn Du đã kế
thừa. Nguyễn Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về nguời phụ nữ lý tưởng theo
quan niệm của lễ giáo phong kiến: “Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục
Vân Tiên). Những người phụ nữ trong Chinh
phụ ngâm hay Cung
oán ngâm cũng là những đại
diện tiêu biểu cho quan niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ. Nhưng với
Hồ Xuân Hương, người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có cái nhìn mới
về vẻ đẹp người phụ nữ, đứng ở vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp của giới
mình. Xuân Hương là người đầu tiên và có thể là duy nhất đưa vào văn học giai
đoạn này không phải là cô gái quý tộc mà đích thực là những cô gái bình dân.
Bà tìm thấy vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm
hồn của họ (Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, Quả mít); ca ngợi tuổi trẻ
tươi mát, trắng trong các cô gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); đi vào
đến từng chi tiết của vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ ngủ ngày)…
Tuy nhiên,
trong quan niệm của dân tộc ta thời kì này thì người phụ nữ đẹp thường gắn liền
với số phận bất hạnh. Điểm lại gương mặt nhân vật nữ thời kì này ta thấy một
điểm chung ở họ là có một cuộc đời đầy sóng gió, bẽ bàng, không mấy người có
được hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải chăng là do quan niệm “hồng nhan bạc
mệnh”.
B/
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học
Việt Nam.
Từ trước thế kỉ XVI, nhân vật phụ nữ đã thoáng hiện trong các tác phẩm văn xuôi
tự sự cũng như trong thơ ca. Đó là hình ảnh những vị anh hùng dân tộc, như Bà
Trưng, Bà Triệu, sống đánh giặc, chết hoá thành phúc thần tiếp tục giúp dân
giúp nước; hoặc các nhân vật khác như Mị Châu, vì ngây thơ mà bị kẻ thù lợi
dụng để đến mất nước tan nhà; như công chúa Tiên Dung thích ngao du sơn thuỷ,
bất chấp luật lệnh của vua cha, tự ý kết duyên cùng chàng đánh cá Chử Đồng Tử nghèo
khó không một mảnh khố che thân; hay nàng quận chúa A Kim yêu say đắm Hà Ô Lôi
– một đứa vừa xấu vừa đen nhưng có giọng hát mê hồn… Trong lĩnh vực thơ ca, ta
cũng thấy có một số bài, hoặc ngâm vịnh về nhân vật lịch sử như các bài Vịnh Mị
Ê, Vịnh nàng Điêu Thuyền, Vịnh Chiêu Quân, hoặc các bài nói về nỗi buồn thương
của các thiếu phụ, kẻ thì bị tình duyên dang dở như bài Chức Nữ nhớ Ngưu Lang,
Tiên tử mong Lưu Nguyễn, Hoàng giang điếu Vũ Nương…Trong lĩnh vực sân khấu dân
gian có Thị Kính trong vở chèo "quan âm Thị Kính" chịu nỗi hàm oan
nuôi con cho Thị Mầu đến lúc hóa về cõi nết bàn... Tuy nhiên, ở giai đoạn này,
nhân vật phụ nữ chưa trở thành đối tượng quan tâm chính của văn học mà chỉ mới
xuất hiện lẻ tẻ trong văn xuôi lịch sử, trong thần phả, trong truyện dân gian,
hoặc trong các bài thơ điếu, vịnh,…
Đến thế kỉ XVI, đặc biệt là thế kỉ XVIII,
phụ nữ đã trở thành một trong những đề tài lớn của văn học. Các thể loại văn
học dường như đều xoay quanh việc phản ánh số phận người phụ nữ. Vì vậy, trong
văn học giai đoạn này, hình tượng người phụ nữ hiện lên một cách khá đầy đủ và
toàn diện trên nhiều bình diện. Về văn xuôi, các tác phẩm nổi tiếng viết về đề
tài phụ nữ có “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ (nửa đầu thế kỉ XVI), “Truyền
kì tân phả” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), “Kiến văn lục” của Vũ
Trinh (1759 – 1828),… Truyện Nôm cũng có rất nhiều tác phẩm viết về đề tài này,
nhưng tiêu biểu hơn cả là các truyện “Hoa Tiên” của Nguyễn Huy Tự (1743
– 1790), “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1765 – 1820),“Sơ kính tân trang”
của Phạm Thái (1777 – 1813),… " Lục Vân Tiên" của Nguyễn
Đình Chiểu ( 1822-1888)...Thơ ca viết về phụ nữ, nổi bật là tác phẩm “Chinh
phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn ( dịch giả Đoàn Thị Điểm), “Cung oán
ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798),thơ của Hồ Xuân Hương,…
Nói tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, trong các thể loại văn học, thơ
ca cũng như văn xuôi tự sự, tác phẩm viết bằng chữ Hán cũng như viết bằng chữ
Nôm,… dường như nở rộ đề tài viết về người phụ nữ và hình tượng người phụ nữ
nổi bật lên với hai đặc điểm cơ bản:
1. Phụ
nữ - hiện thân của cái đẹp.
2. Phụ
nữ - hiện thân của số phận bi thương.
I. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ - HIỆN THÂN CỦA CÁI ĐẸP
Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu
hát ru ngọt ngào, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo
tần qua bao năm tháng… và từ trong cái nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ nữ là
đề tài chưa bao giờ vơi cạn trong nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ, qua nhiều
thời đại khác nhau.
Thần thoại Hi Lạp kể
rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây
leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ
của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái
nhìn đăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít của đàn ong, ánh rực rỡ của mặt trời,
nỗi xót xa của tầng mây, luồng biên động của cơn gió, tính nhút nhát của con
hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, hình nhuần nhuyễn của con chim yểng,
chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của
băng tuyết đức trung trinh của chim uyên ương đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn
thành người phụ nữ”. Có thể nói, người phụ nữ là biểu tượng của cái đẹp.
Nhân vật phụ nữ, ở thể loại tự sự hay trữ
tình trong văn học trung đại, thường đẹp cả người lẫn nết, ít thấy có hiện
tượng “xấu người đẹp nết” như trong văn học dân gian. Chính vì thế, các nhân
vật chính diện là những phụ nữ trong văn học từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX
hầu hết có sự hài hoà giữa cái đẹp về hình thức với cái đẹp về tâm hồn, họ là hiện
thân của cái đẹp: đẹp người và đẹp nết.
1. Cái đẹp hình thể
Điều đặc biệt là: các cô gái khi đi vào
văn học giai đoạn này đều là những giai nhân tuyệt thế.
Hạnh Nguyên trong “Nhị
độ mai” là một cô gái đẹp rực rỡ:
“Người đâu trong
ngọc trắng ngà,
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc rà rà mây”.
Sắc đẹp của người cung
nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều đã đến mức siêu phàm:
“Chìm đáy nước cá lừ
đừ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương tươi đắm
nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía Hằng
Nga giật mình”.
Chị em Thuý Vân và Thuý Kiều trong " Truyện Kiều" của Nguyễn Du thì
rõ ràng là khuôn mẫu của sắc đẹp:
“Vân xem trang trọng
khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt
đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo
mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét
xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Hai tiểu thư cành vàng lá ngọc, thông minh
xinh đẹp "mai cốt cách, tuyết tinh thần’. Tuy mỗi người một vẻ nhưng ai
cũng vô cùng xinh đẹp, dáng vẻ thanh thoát, yêu kiều như nhành mai, còn tâm hồn
lại trắng trong như băng tuyết, thanh cao, kiều diễm và quý phái…Với bút pháp
nghệ thuật ước lệ, Nguyễn Du đã lấy những hình tượng đẹp của thiên nhiên để tôn
lên vẻ đẹp tuyệt đỉnh của chị em Thúy Kiều. Vân có một vẻ đẹp cao sang, quý
phái, trẻ trung: khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét,
đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thoát ra
từ hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn
tuyết,...
Vân đã đẹp, Kiều lại càng đẹp hơn. Một vẻ
đẹp "sắc sảo" về trí tuệ và "mặn mà" về tâm hồn. Một vẻ đẹp
" nghiêng nước nghiêng thành", một vẻ đẹp khiến hoa phải "
ghen", liễu phải " hờn"...
Hồ Xuân Hương còn muốn
vĩnh hằng hoá sắc đẹp của người con gái trong bài thơ “Đề tranh tố nữ”:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình.
Chị
cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh”.
Ngay cả những cô gái bình dân cũng mang vẻ
đẹp thật quyến rũ.Trong tác phẩm "
Bánh trôi nước" của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hiện lên hình ảnh người con
gái "vừa trắng lại vừa tròn", một người mang vẻ bề ngoài đầy đặn,
tròn trịa. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, dân dã, không chăm chút mà mộc mạc, tự nhiên
nhưng không kém phần duyên dáng với làn da trắng mịn màng. Đấy chính là vẻ đẹp
của người con gái lao động hay lam hay làm, đầy mạnh mẽ chốn thôn quê. Ta cũng
bắt gặp người phụ nữ như thế xuất hiện trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. Vũ Thị
Thiết cũng giống như cô gái trong "Bánh
trôi nước", là một người phụ nữ thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt
đẹp, chăm chỉ siêng năng,… khiến Trương Sinh phải đem lòng thương mến mà bỏ ra
trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ.
2. Cái đẹp tài năng
Sắc đẹp của nhân vật nữ trong văn học giai đoạn này thường
gắn liền với một phần phẩm chất không thể thiếu được, đó là tài. Ở họ, sắc
và tài tạo thành một cặp đặc điểm không tách rời nhau. Theo quan niệm
của xã hội phong kiến, tài gồm bốn mặt sau đây: cầm, kì, thi, hoạ, nghĩa
là: có tài đánh đàn, chơi cờ, làm thơ và vẽ. Có thể coi Thuý Kiều của Nguyễn Du
là nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất nói trên. Tiếng đàn của nàng làm cho Kim
Trọng phải “ngơ ngẩn sầu”, làm cho Thúc Sinh “cũng tan nát lòng”
và làm cho Hồ Tôn Hiến “nhăn mày, rơi châu”. Tài làm thơ của Kiều nhanh
đến khó mà tưởng tượng nổi:
-
Tay
tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
-
Tay tiên gió táp mưa sa…
Đã nhanh, lại hay! Thơ của Kiều có thể cảm
thông được quỷ thần, khiến hồn ma Đạm Tiên phải hiện lên, khiến viên quan phủ “mặt
sắt đen sì” phải rủ lòng thương, không những chỉ tha cho Kiều mà còn đứng
ra làm lễ tác hợp cho nàng được lấy Thúc Sinh, và cho Hoạn Thư, một con người
tai quái cũng phải thốt lên:
“Rằng: Tài nên
trọng, mà tình nên thương”
Hay chính ở nữ sĩ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là " bà chúa
thơ Nôm". Cuộc đời và thơ ca của bà là một hiện tượng khá đặc biệt được
rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay. Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học;
một hôm gặp phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân
ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng
ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:
Giơ tay với thử trời cao
thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.
rồi bình thản đi vào. Mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài.
Lại có
chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững thững trên
bờ Hồ Tây, bỗng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau rồi trêu
ghẹo nàng, có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một
bài thơ rằng:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Có thể nói rằng,
trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy, Xuân Hương vẫn dám
khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình.
Hay trong bài "Ðề đền Sầm Nghi Ðống",
tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về mình, thể hiện được tài năng của người
phụ nữ:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền
thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ði qua ngôi
đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu
chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn
liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều
táo bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không
tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu.
Qua đây, ta cũng hiểu
thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn là những
con người có đầy tài năng.
3. Cái đẹp tâm hồn
Tuy vậy, ca ngợi tài và
sắc của người phụ nữ không phải là mục đích của tác giả văn học thế kỉ XVI – thế
kỉ XIX. Tài và sắc chỉ là một phương diện của cái đẹp và làm nền để bộc lộ bản
chất của cái đẹp: đẹp nết. Mỗi một
thể loại văn học, mỗi một tác giả văn học lại có cách biểu đạt riêng về cái đẹp của người phụ nữ.
Khi nói đến đẹp nết là
ta đã đề cập tới phạm trù đạo đức. Trong văn học dân gian người ta cho rằng:
“Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”.
Nhưng, như trên đã nói,
trong văn học trung đại không có sự đối lập giữa hình thức (xấu người) với nội
dung (đẹp nết). Hình thức và nội dung thường có sự hoà quyện sóng đôi. Vì thế,
ở các truyện truyền kì cũng như truyện Nôm, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhân
vật phụ nữ luôn toát lên một phẩm chất cao đẹp: hiếu thảo, thủy chung, giàu đức
hi sinh và có tấm lòng vị tha nhân hậu.
Nàng Vũ
Nương trong " Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ là người
phụ nữ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng: Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn
có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ
chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui.
Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực! Hạnh phúc êm ấm
tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân
ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy,
dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này,
thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về
mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình
dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem
thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao
mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc
cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa
chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng.”. Qua lời nói dịu
dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành
cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có
cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy
mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách,
biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao! Khi xa
chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Nỗi nhớ thương
dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi
buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ
chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò
võ. Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ
Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Khi
hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người
chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần.
Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục
chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm
giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa
chưa hề bén gót.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy
thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết
gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. Rồi những năm tháng sống
ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương
nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang,
nghe Lang kể về tình cảnh gia
đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù
đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng
con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong
trái tim người phụ nữ ấy, không vẩn chút thù hận, chỉ có sự yêu
thương và lòng vị tha.
Vũ Nương
còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy
tình yêu thương con. Trong
ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm
mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ. Với mẹ
chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng
dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và
lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.
Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với
cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước
lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân
trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi
tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ
mẹ". Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi
xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng
nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình
trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : để con
trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
Có thể nói, Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ
yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng
người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
Trong " Truyện Kiều" của Nguyễn Du,
trước tai biến bất ngờ của gia đình, Thuý Kiều đã hi sinh thân mình, hi sinh
tình yêu của mình:
“Rẽ cho để thiếp bán
mình chuộc cha”.
Đến khi một mình cô đơn
giữa mênh mang trời nước của Lầu Ngưng Bích, Kiều cũng lại quên đi cái thân
phận của mình để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ:
Tưởng người dưới nguyệt
chén đồng,
Tin sương luống những rày trông
mai chờ.
Bên
trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột
rửa bao giờ cho phai.
Xót người
tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng
ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai
cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc
tử đã vừa người ôm.
Đầu tiên nàng nhớ tới
chàng Kim, nhớ tới lời thề đôi lứa. Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang ngày đêm
đau đáu chờ tin nàng mà uổng công vô ích. Nàng luôn cảm giác mình mang tội phụ
tình. Tiếp đó Kiều nghĩ đến cha mẹ. Nghĩ đến song thân nàng thương cha mẹ khi
sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa cha mẹ
lúc già yếu mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người trông nom.
Nàng đau đớn xót xa nghĩ mình là con bất hiếu, phụ công sinh thành nuôi dạy của
mẹ cha.
Khi rơi vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều phải
sống một cuộc đời nhơ nhớp. Có lần nàng đã tự tử để mong thoát khỏi kiếp sống
đoạ đày đó. Nhưng khi Thúc Sinh ngỏ lời cầu hôn, Kiều không coi đấy là cơ may
phải chớp lấy. Điều đầu tiên Kiều nghĩ đến là hạnh phúc của Hoạn Thư, người vợ
hiện tại của Thúc Sinh. Nếu như nàng lấy chàng Thúc, một hiện thực không thể
tránh khỏi cho Hoạn Thư là:
“Thêm người, người
cũng bớt lòng riêng tây”.
Rõ ràng, người bị thiệt
thòi trước hết là Hoạn Thư. Tình cảm vợ chồng của Hoạn Thư sẽ bị chia sẻ. Kiều
không đang tâm. Rồi khi được quan phủ và Thúc ông tác thành cho lấy Thúc Sinh,
có thể nói, đó là lúc Kiều được sống trong hạnh phúc ấm êm. Nhưng nàng không
giành giật hạnh phúc cho riêng mình. Nàng nghĩ đến sự cô đơn, thiệt thòi của
Hoạn Thư, do đó nàng chủ động nài nỉ chàng Thúc trở về thăm vợ:
“Xin chàng hãy trở
lại nhà.
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình”.
Làm việc này, Kiều hoàn
toàn dự cảm được điều gì đang đợi mình sau chuyến thăm vợ của chàng Thúc. Nàng nói:
“Dù khi sóng gió bất
bình
Lớn ra phận lớn, tôi đành phận tôi”.
Biết hi sinh mình cho
người là một trong những đức tính của Kiều nói riêng và của các nhân vật phụ nữ
trong văn học Việt Nam
thế kỉ XVI - XIX nói chung.
Cùng với lòng vị tha,
tấm tình thuỷ chung son sắt cũng là một trong những phẩm chất nổi bật của người
phụ nữ.
Kiều ăn ở với mọi người
trước sau như bát nước đầy. Bà quản gia, vãi Giác Duyên, Thúc Sinh… là những
người đã từng cưu mang, cứu vớt Kiều. Sau này, khi đã trở thành vợ của người
anh hùng cái thế Từ Hải, Kiều vẫn nhớ tới ơn sâu nghĩa nặng của họ. Nàng đền ơn
chàng Thúc thật là trọng hậu:
“Gấm trăm cuốn, bạc
nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”.
Gặp lại Bà quản gia và
vãi Giác Duyên, Kiều nhắc tới công ơn cứu giúp của họ bằng lời nói vừa chân
thật, vừa cảm động:
“Nhớ khi lỡ bước sảy
vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút
lễ thường,
Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!”.
Ngay
ở nhân vật Thúy Vân- người em vườn Thúy ( theo tác giả Nguyễn Thị Sâm trong
" Bình giảng Truyện Kiều- NXB văn học)
đã khẳng định một vẻ đẹp đáng nể trọng không chỉ về hình thể mà cả vẻ
đẹp tâm hồn. Điều mà nhiều chúng ta hay quên khi mải ca tụng Thúy Kiều!
Vân đẹp, một vẻ đẹp truyền thống: đoan
trang, thùy mị và phúc hậu:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, thuyết nhường màu da.
Một
vẻ đẹp nguyên sơ mà vĩnh cửu! Đẹp như chiếc áo tứ thân miền Bắc, chiếc áo cụt
miền Trung hay chiếc áo bà ba miền " mưa nắng hai mùa".
Không
chỉ đẹp ở nhan sắc, Thúy Vân còn có một tâm hồn cao cả. Giống như tất cả mọi
người con gái, Vân có tình cảm riêng tư cá nhân chứ, nhưng khi vì gia đình, vì
để giữ vẹn ân toàn nghĩa của chị với chàng Kim nàng chấp nhận sống bên cạnh Kim
Trọng như một cái bóng bên người chồng hờ ( Kim Trọng có phút giây nào nghĩ đến
Thúy Vân đâu?) mà nàng chưa bao giờ than phiền gì .
Rồi
đến phần tái hợp Kim- Kiều, bao tầm mắt hướng về cô em gái. Không phụ lòng mong
mỏi, đoán trước ý muốn của người thân:
Đứng lên Vân mới giãi bày...
Rằng trong tác hợp cơ trời,
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
Gặp cơn binh địa ba đào,
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
Cũng là phận cải duyên kim,
Cũng
là máu chảy ruột mềm có sao?
Những là nay ước mai ao,
Mười
lăm năm ấy biết bao là tình.
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khôn
thiêng lừa lọc đã đành có nơi.
Còn duyên nay lại còn người,
Còn
vằng trăng bạc, còn lời nguyền xưa.
Quả mai ba bảy đương vừa,
Đào
non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Thật chí tình! Thúy Vân chỉ nghĩ đến kẻ
mười lăm năm lưu lạc truân chuyên, nghĩ đến tình ai chung thủy. Nàng đâu có
chút nào nghĩ đến thân phận của mình. Nàng trở về kiếp sống âm thầm, khi bổn
phận đã tròn. Mặc lời bình phẩm, mặc thế gian. Vẻ đẹp ấy không phải cao cả,
đáng kính lắm sao!
Còn Hồ Xuân Hương đã hình tượng hoá phẩm
chất của người phụ nữ trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Bánh trôi nước”
theo kiểu Hồ Xuân Hương:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Dù cuộc đời có bị vùi
dập “bảy nổi ba chìm” thì “tấm lòng son” của người phụ nữ vẫn
được giữ gìn trọn vẹn. Đó là nét nổi bật
nhất về hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI – thế kỉ XIX.
Phẩm chất tốt đẹp của
nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong " Truyện Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình
Chiểu được thế hiện qua lời lẽ chân thành mà nàng giãi bày với Lục Vân Tiên khi
được chàng cứu. Đó là lời lẽ của một tiểu thư khuê các, đoan trang và có học
thức:
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con nầy tì tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thơ về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con dâu dám cãi cha,.
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm củng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
Cách xưng hô của nàng vừa
trân trọng, vừa khiêm nhường; nói năng dịu dàng, mực thước; trình bày rõ ràng,
khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa
thể hiện niềm cảm kích chân thành đối với ân nhân cứu mạng. Nguyệt Nga là người
chịu ơn. Lục Vân Tiên không chỉ cứu mạng, mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng
của nàng. Mà đối với người con gái, điều đó còn quý hơn tính mạng:
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Nàng băn khoăn tìm cách
trả ơn chàng, dù hiểu rằng đền đáp bao nhiêu cũng là không đủ:
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Bởi thế, nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng
trai khảng khái, hào hiệp và sau này dám liều mình quyên sinh để giữ trọn ân
nghĩa thuỷ chung.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã
chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những con người luôn đặt ân
nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc rễ của đạo đức.
II. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ - HIỆN THÂN CỦA NHỮNG
SỐ
PHẬN BI THƯƠNG
Những người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng
tiếc thay họ lại sống trong một xả hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại
mục ruỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại
càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chèn ép, bất công. Như một quy luật
khắc nghiệt của thời bấy giờ "hồng nhan bạc phận".
1. Trước
hết, họ là nạn nhân của những hủ tục, lễ giáo phong kiến khắc nghiệt
a, Chế độ đa thê
Dưới chế độ phong kiến, mọi thế lực xã
hội, kể cả gia đình, đều có thể chà đạp lên thân phận người phụ nữ.
Đứng đầu các thế lực xã hội thời bấy giờ là vua
chúa. Để phục vụ cho việc ăn chơi truỵ lạc, bọn chúng đã kén hàng trăm cô gái
trẻ trung, xinh đẹp vào cung làm phi tần. Chế độ cung tần dã man đã làm cho
tuổi xuân và sắc đẹp của các cô gái bị chôn vùi trong cung cấm. “Cung oán
ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều là tiếng oán thán đến rớm máu cho những số
phận đau thương đó. Khi đã vào cung, ngoại trừ một vài người có cái may mắn
được vua chúa sùng ái, còn hầu hết các cung nữ đều mau chóng bị ruồng bỏ, lãng
quên. Họ chỉ còn biết âm thầm thở than, oán trách:
“Hoa này bướm nỡ thờ
ơ
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng”.
Dân gian thường nói:
“Vua thì nhiều vợ
nhất đời
Ba trăm mĩ nữ, sáu mươi cung tần”.
Bởi quá nhiều cung tần
mĩ nữ như vậy, người cung phi không thể tìm được cho mình chỗ đứng trong cái
“gia đình” một chồng mà có tới vài ba trăm vợ ấy. Họ buộc lòng phải thốt lên:
“Ngán thay cái én ba
nghìn
Một cây cù mộc biết chen cành nào”.
Sống âm thầm cô đơn, để
cho tuổi xuân tàn tạ và trở thành những người không chồng không con “Bỗng không
mà hoá ra người vị vong” (Người vị vong:
người có chồng bị chết) rồi chết già trong cung cấm, đó là số phận không thể tránh
khỏi của người cung nữ.
Nữ sĩ Xuân Hương đã nói một
cách trần trụi nhất về nỗi khổ, số phận của những người phụ nữ sống trong cảnh
" chồng chung":
Kẻ đắp chăn bông
kẻ lạnh lùng,
Chém cha
cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một
tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm
bằng làm mướn, mướn không công.
...............
(Làm lẽ)
Ở xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là
thường, còn người phụ nữ chỉ biết chấp nhận. Họ đâu có quyền làm chủ đời mình.
b, Chế độ nam quyền
Đối với người phụ nữ, gia đình là tất cả,
vì gia đình là tổ ấm, là chốn nương thân, là nơi có thể tìm thấy niềm vui, sự
an ủi. Nhưng biết bao kiếp người phụ nữ đã gặp cảnh gia đình ngang trái, nhất
là khi lấy phải người chồng chẳng ra gì. Bài thơ “Khóc tổng Cóc” của Hồ
Xuân Hương như tiếng thở dài của người vợ khi đã trút được gánh nặng về ông
chồng:
“Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!”
Có lẽ tiêu biểu hơn cả cho những số phận
cay đắng do người chồng gây ra là nhân vật Vũ Thị Thiết trong truyện "
Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đớn đau thay số phận của
nàng Vũ Nương! Chỉ vì muốn con vui, muốn bớt buồn, giải khuây khi sống cô đơn
vò võ nuôi con nên nàng đã lấy cái bóng của mình, nói với con đó là cha. Nhưng
nàng đâu thể ngờ, chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi bất hạnh, tủi nhục,
bị chồng nghi oan mà phải trầm mình xuống sông tự vẫn! Với nàng, để minh oan,
không còn cách nào khác nữa. Nàng đã cùng đường mất rồi! Giá như cái xã hội này
có một chút công bằng, để cho lời nói của người phụ nữ có giá trị thì chắc
chuyện đáng tiếc này đã không xảy ra; nàng đã không phải chịu uất ức, không
phải lấy nước sông để rửa trôi nỗi nhục mà chồng nàng áp đặt.
c, Chế độ đồng tiền
Còn nhiều và rất nhiều
những kiếp người như Vũ Nương, như Xuân Hương. Trong xã hội phong kiến số phận
người phụ nữ luôn bị chà đạp bởi rất nhiều thế lực khác nữa. Một xã hội nhốn
nháo bởi đồng tiền, một xã hội mà cán cân công lí nghiêng theo ý muốn của những
kẻ có quyền, có tiền...Trong xã hội ấy, người phụ nữ luôn phải chịu nhiều bất
công ngang trái nhất.
Nỗi bất hạnh của Vũ Nương trong "
Chuyện người con gái Nam Xương" có nguyên nhân sâu xa từ đồng tiền mà ra.
Cuộc hôn nhân của Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng, nó không
xuất phát từ tình yêu mà giống như một cuộc mua bán. Trương Sinh vì mến dung
hạnh Vũ Nương mà " xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về". Sự cách
bức giàu – nghèo đã cộng thêm một cái thế cho Trương Sinh, bên cạnh cái thế của
người chồng, người đàn ông trong chế độ gia trưởng phong kiến. Đứng trên cái
thế của kẻ có quyền, có tiền nên Trương Sinh mới bất chấp tất cả mọi lời phân
trần của vợ, mới không mảy may để ý đến những lời bênh vực biện bạch của làng xóm
để rồi Vũ Nương mới phải tìm đến cái chết để chứng minh sự chung thủy.
Song có lẽ, điển hình cho nhân phẩm và tài
sắc bị vùi dập vẫn là nhân vật Thuý Kiều trong " Truyện Kiều" của
Nguyễn Du. Xã hội mà Thúy Kiều sống là cái xã hội: Quan lại vì tiền mà bất chấp
công lý, sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương ông, Tú Bà, Mã Giám Sinh vì
tiền mà làm nghề buôn thịt bán người, Sở Khanh, Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào
tội ác. Cả xã hội chạy theo đồng tiền.(theo Hoài Thanh). Rõ ràng ở cái xã hội mà: "Trong tay đã sẵn đồng tiền/ Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì"
thì nhân phẩm của phụ nữ bị coi
rẻ, bị chà đạp phũ phàng. Ma lực đồng tiền khiến những kẻ xấu xa sẵn sàng nhúng
tay vào tội ác, gây ra bao đau khổ cho người dân lương thiện.
Trong xã hội ấy, đầu mối của
mọi cái xấu xa, tàn bạo là do bọn quan lại phong kiến gây ra. Cái xấu của chúng
là bản chất. Từ tên bán tơ thấp hèn nhất trong xã hội đã vì đồng tiền mà:
“Một ngày lạ thói sai
nha,
Làm cho khốc hại chẳng
qua vì tiền.”
Rồi sau đó là hàng loạt
các tên quan khác xuất hiện có quyền, vì
tiền mà sẵn sàng trà đạp lên nhân phẩm con người. Tên quan thứ nhất tiếp tay
cho bọn sai nha “cướp ngày”, tra khảo tàn khốc Vương Ông, Vương Quan. Chính tên
quan này đã đẩy Thuý Kiều, một cô gái trong trắng lương thiện vào nhà chứa, để
“Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Thuý Kiều phải bán mình lấy tiền chuộc
cha, chuộc em. Tên quan thứ hai “mặt sắt đen sì”, đại diện luật pháp sử kiện vụ
Thúc ông với Thuý Kiều “Một là cứ phép gia hình/Hai là lại cứ lầu xanh phó về”.
Ở đây rõ ràng có tính chất trả thù, lăng nhục, chứ không có tính chất giáo
huấn, sửa sai. Viên quan thứ ba là trọng thần Tổng đốc Hồ Tôn Hiến, tên quan to
nhất, cũng là tên quan ti tiện, bỉ ổi nhất. Hắn đã đẩy Thuý Kiều đến cảnh phải
nhảy xuống sông tự vẫn.
Đương đầu với những thế
lực tàn bạo ấy, thân phận của nàng Kiều quả là đau xót.
Tài sắc của Kiều, như Nguyễn Du đã nói:
“Sắc đành đòi một,
tài đành hoạ hai”.
Hơn nữa, Kiều lại có lòng vị tha, có trái
tim đôn hậu. Vậy mà, đời nàng là một chuỗi dài những bi kịch “hết họa nọ đến
nạn kia”. Mới 15 tuổi đầu, Kiều đã phải bán mình chỉ vì thằng bán tơ vu oan
giá họa cho gia đình. Bán mình đã là điều đau khổ. Nhưng cái chính là, tài sắc
như Kiều mà phải đem thân bán cho tên ô trọc Mã Giám Sinh tuổi “ngoại tứ tuần”.
Nỗi đau đớn bất ngờ ấy khiến Kiều không thốt lên được một lời nào, nàng chỉ còn
biết khóc:
“Thềm hoa một bước
lệ hoa mấy hàng”.
Từ đây, nước mắt của
nàng sẽ nhỏ theo từng bước chân nàng trong suốt 15 năm trời lưu lạc. Khi mới
bán mình, Kiều chưa hình dung được thân phận mình sau này sẽ ra sao. Nàng chỉ
biết rằng:
“Từ đây góc bể chân
trời
Nắng mưa thui thủi quê người một thân”.
Oái oăm thay, con người
tài sắc “đáng giá nghìn vàng” như Kiều, sau khi qua tay Mã Giám Sinh,
lại rơi vào lầu xanh bẩn thỉu của Tú Bà. Kiều quằn quại khi phải sống cuộc đời
nhơ nhớp của gái lầu xanh:
“Khi tỉnh rượu, lúc
tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ
là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn
sương,
Thân sao bướm chán ong ong chường bấy
thân!”.
Được Thúc Sinh cứu khỏi
lầu xanh của Tú Bà, Thuý Kiều lại bị Bạc Bà, Bạc Hạnh đẩy vào lầu xanh lần thứ
hai.
Tài sắc lẽ ra phải được
nâng niu trân trọng. Song, dưới chế độ phong kiến, ngược lại, tài sắc trở thành
nguyên nhân để nhân phẩm bị chà đạp. Thoạt tiên, tài sắc của Thuý Kiều bị biến
thành món hàng trong tay những “phường bán thịt”, “quân buôn người”:
“Đắn đo cân sắc cân
tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”.
Sau này, Hoạn Thư đem
tài đàn của Kiều ra để hành hạ nàng, bắt nàng hầu đàn Thúc Sinh. Và cuối cùng,
Hồ Tôn Hiến cũng dùng tiếng đàn của Kiều để nhục mạ nàng. Như chúng ta đã biết,
trong đời Kiều, Từ Hải là người duy nhất giúp nàng ngẩng cao đầu “cả cười” và
“ân oán rạch ròi”. Đối với Kiều, Từ Hải là ân nhân (cứu Kiều ra khỏi lầu xanh,
giúp nàng đền ơn báo oán, đưa Kiều từ thân phận gái lầu xanh lên bậc mệnh phụ
phu nhân…), là người tri kỉ, là chồng,… Từ Hải là tất cả cuộc đời Kiều. Vậy mà,
vì mắc lừa Hồ Tôn Hiến – quan trọng thần, đại diện triều đình – Kiều đã khuyên
Từ Hải ra hàng để dẫn đến cái chết của Từ. Đời Kiều rất nhiều nỗi đớn đau, nhưng
nỗi đớn đau lớn nhất vẫn là việc Từ Hải chết. Kiều đã khóc, khóc suốt 15 năm,
nhưng chưa bao giờ nàng khóc nhiều như khi Từ Hải chết. Nàng khóc cho chồng,
khóc cho mình, khóc cho đời, khóc cho người tri kỉ mà mình vô tình làm hại. Nỗi
đau đớn đó làm cho Kiều như bị tan ra thành nước mắt:
“Dòng thu như giội
cơn sầu”.
Đang trong cơn tuyệt
vọng như vậy, Kiều lại phải dùng tài đàn của mình để mừng công Hồ Tôn Hiến, kẻ
vừa giết Từ Hải. Đó là là sự sỉ nhục lớn nhất trong đời Kiều. Tiếng đàn mà Hoạn
Thư bắt Kiều hầu rượu Thúc Sinh đã não nùng:
“Bốn dây như khóc
như than”
Tiếng đàn hầu rượu Hồ
Tôn Hiến còn não nùng hơn! Đó không chỉ là tiếng khóc, tiếng than, mà là tiếng
máu bật ra từ trái tim đau khổ:
“Một cung gió thảm
mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!’.
Sự chà đạp nhân phẩm đã
lên đến cùng cực. Kiều không còn lí do gì để sống. Nàng phải nhảy xuống sông
Tiền Đường, kết thúc một kiếp tài hoa bị đoạ đày.
2. Họ là nạn nhân của chiến tranh phi
nghĩa
Nhìn lại lịch sử giai đoạn này ta thấy: Đến đầu thế kỷ XVI nhà Lê suy yếu dần , phong
trào đấu tranh của nông dân phát triển mạnh . Sự suy thoái của nhà nước phong
kiến tập quyền dẫn đến mâu thuẫn
xã hội sâu sắc và sự căm phẫn của các tầng lớp nhân dân, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa. Và các cuộc chiến
tranh phong kiến diễn ra liên miên là đặc điểm nổi bật.
Phục vụ cho những cuộc chiến tranh đó, biết bao người dân đã một đi
không trở lại; biết bao gia đình phải li tán... Và đây cũng là một nguyên nhân
đem đến nỗi bất hạnh cho người phụ nữ.
Nỗi bất hạnh của Vũ Nương trong "
Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, nguyên nhân sâu xa cũng do
chiến tranh mà nên. Chiến tranh khiến Trương Sinh phải đi lính bỏ lại Vũ Nương
một mình nuôi con thơ, phụng dưỡng mẹ già; Chiến tranh khiến cho cái gia đình
nhỏ nhưng " không thất hòa" ấy li tán để ngày trở về người chồng nghi
oan cho vợ thất tiết, vợ phải gieo mình xuống sông để chứng minh sự trong sạch.
Trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn (
dịch giả Đoàn Thị Điểm), mặc dù tất cả những địa danh, địa trận, những chốn hẹn hò, những tên
thành, núi, sông và ngay cả tên các vị danh tướng… nhất nhất đều thuộc nước
Trung-hoa, để phác họa nên khung cảnh chiến tranh xảy ra tại Bắc quốc. Nhưng rõ
ràng đây chỉ là một cuộc chiến tranh tưởng tượng. Cuộc chiến tranh ở đây vì vậy
chỉ có tính tượng trưng. “Chính tính
cách tượng trưng này đã giúp cho sự thác ngụ của tác giả”. (Dẫn lời giáo sư
Phạm Thế Ngũ, Việt Nam
văn học sử giản ước tân biên, q.II,
tr.164). Ta có thể hình dung cuộc chiến tranh trong Chinh phụ ngâm khúc là nói về cuộc binh biến kéo dài ở
nước ta, trong giai đoạn xã hội rối loạn, giặc giã triền miên vào thời các chúa
Trịnh Giang và Trịnh Doanh, khoảng giữa thế kỉ XVIII.
Và cuộc chiến tranh ấy cũng là một trong
những tai hoạ giáng xuống đầu người phụ nữ. “Chinh phụ ngâm khúc” chính
là tiếng kêu khắc khoải của người vợ trẻ có chồng bị cuốn vào cuộc chiến tranh
phi nghĩa. Người chồng ra trận đối mặt với cái chết, vợ ở nhà chỉ còn biết
ngóng theo. Nhưng giữa đôi vợ chồng trẻ ấy là một khoảng cách vô cùng:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn
dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Xa chồng, người vợ ở nhà thì mòn mỏi chờ
mong, lo âu phấp phỏng: lo cho chồng nơi chiến địa, lo cho tuổi xuân của mình
lặng lẽ trôi qua:
“Thiếp rầu thiếp,
lại rầu chàng chẳng quên”.
Nỗi cô đơn gặm nhấm dần
tuổi trẻ, người chinh phụ không khỏi lo lắng cho sự tàn tạ của mình:
“Gái tơ mấy chốc xảy
ra nạ dòng”.
Nàng khao khát được gặp
lại chồng dù chỉ một lần thôi, song chiến tranh đẩy họ xa nhau, mỗi người một
phương biền biệt:
“Thiếp trong cánh
cửa, chàng ngoài chân mây”.
Sầu chia li giày vò,
người chinh phụ chỉ còn biết tìm chút hạnh phúc trong mộng mị:
“Duy còn hồn mộng
được gần,
Đêm đêm thường tới giang tân tìm
người,…”.
Nhưng mộng rồi phải
tỉnh, và khi tỉnh dậy càng thấy buồn khổ hơn:
“Giận thân thiếp lại
không bằng mộng
Được gần chàng bến Lũng thành Quan,
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tỉnh trong giấc mộng muôn vàn cũng không”.
Nói tóm lại, ngày nay
đọc lại văn học trung đại Việt Nam,
ta thấy hình tượng người phụ nữ nổi bật lên hai nét lớn: phụ nữ hiện thân của
cái đẹp và phụ nữ hiện thân của những số phận bi thương. Đấy là một trong những
thành công lớn của các tác gia văn học Việt Nam thế kỉ XVI - thế kỉ XIX. Nó đã góp phần vào trào lưu nhân
đạo chủ nghĩa, góp phần vào tiếng nói đòi giải phóng con người, nhất là giải
phóng phụ nữ. Khi xây dựng hình tượng các nhân vật phụ nữ này, ở mỗi tác phẩm
văn học trung đại ta đều cảm nhận được thái độ cảm thông, trân trọng và ngợi ca
của các nhà thơ nhà văn. Cái tâm, cái tình của các tác giả văn học trung
đại mang đậm giá trị nhân đạo cao cả.
Nói rộng ra, nó đều xuất phát từ tình yêu thương con người. Yêu thương nên đồng
cảm với nỗi khổ của họ, yêu thương nên trân trọng ngợi ca những vẻ đẹp, những
khát khao của họ, và yêu thương nên cất
lên tiếng nói đấu tranh bảo vệ phụ nữ. Các tác giả đã thể hiện tấm lòng yêu
thương, đồng cảm, xót xa cho những số phận người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh,
gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời. Lên án, tố cáo xã hội phong kiến bất công,
tàn bạo đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người. Khẳng định, ngợi ca vẻ
đẹp, phẩm chất cao quý của người phụ nữ, dù cuộc đời của họ truân chuyên, nhục
nhằn. Trân trọng, đề cao những khát vọng nhân văn của người phụ nữ: khát vọng
về tình yêu, hạnh phúc, về một mái ấm gia đình bình dị, sum vầy. Các nhà thơ
nhà văn đều đã khẳng định nguyện vọng được sống bình thường của con người là
điều quan trọng và chế độ xã hội nào quan tâm làm cho con người đạt được nguyện
vọng ấm no, hạnh phúc thì chế độ ấy mới có lí do tồn tại.
III. MỘT SỐ BÀI TẬP VẬN DỤNG
Đề bài 1
Cảm nhận của
em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua các tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Dàn ý chi tiết:
I – Mở bài
- Giới thiệu được vấn đề cần nghị
luận ( Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua hai tác phẩm).
II – Thân bài
* Giới thiệu
những nét chung về nội dung của các tác phẩm văn học viết về người phụ nữ trong
xã hội phong kiến: đó là những người phụ nữ có tài, có sắc hoặc có vẻ đẹp tâm
hồn nhưng lại phải sống cuộc đời bất hạnh, khổ đau, gặp nhiều bi kịch -> Khi
viết về họ, các tác giả thường thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình.
*
Phân tích cụ thể:
1.
Hình tượng người phụ nữ Việt Nam
là hiện thân của cái đẹp
a. Vẻ đẹp hình thức:
-
Vũ Nương: vẻ đẹp dịu dàng, thuần hậu ( “ Thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt
đẹp”).
-
Thúy Kiều: Kiều đẹp "sắc sảo, mặn mà”. ( dẫn chứng trong bài “Chị em Thúy
Kiều" ).
b. Vẻ đẹp tài năng, phẩm chất:
-
Vũ Nương: tính tình thùy mị nết na, yêu thương và chung thủy với chồng, hiếu
thảo với mẹ chồng, thương con, hết lòng lo cho hạnh phúc gia đình…( Dẫn chứng )
- Thúy Kiều:
+
Không chỉ đẹp, Kiều còn là người phụ nữ toàn tài. Cầm, kỳ, thi, họa - tài nào
nàng cũng giỏi nhưng nổi trội
nhất vẫn là tài đàn. Đặc tả cái tài của Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Bản đàn bạc mệnh mà
nàng sáng tác chính là tiếng lòng của trái tim đa sầu đa cảm.
+
Hiếu thảo với cha mẹ, giàu đức hi sinh, có lòng vị tha, có trái tim đôn hậu, có
ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình… ( Dẫn chứng qua các đoạn trích đã học và
đọc thêm).
2.
Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của những số phận bi thương
* Qua hai tác phẩm “Chuyện người con
gái Nam Xương” và “Truyện Kiều”, ta thấy người phụ nữ trong xã hội xưa là nạn
nhân của xã hội phong kiến có nhiều bất công dẫn đến những đau khổ, thiệt thòi.
-
Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền:
+
Nàng Vũ Nương có một cuộc hôn nhân không bình đẳng (Trương Sinh xin mẹ trăm
lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ. Sự cách bức giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn
mặc cảm” “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”; và sau này, cũng là
cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo, gia trưởng).
+
Chỉ vì hiểu lầm mà Trương Sinh độc đoán, hồ đồ mắng nhiếc Vũ Nương, không cho
nàng cơ hội thanh minh, khiến nàng phải tìm đến cái chết để minh oan.
+
Vũ Nương chết oan ức nhưng Trương Sinh không ân hận day dứt, không hề bị xã hội
lên án. Trương Sinh coi như việc đã qua rồi. Như vậy, chuyện danh dự, sinh mệnh
của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người đàn ông, không có hành lang
đạo lí, dư luận xã hội bảo vệ, che chở.
-
Người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh, của xã hội đồng tiền đen bạc.
+ Vũ Nương lấy Trương
Sinh, chàng ra lính để lại mẹ già và đứa con còn chưa ra đời. Nuôi dưỡng mẹ
già, chăm sóc con, nàng tận tụy vì gia đình nhưng chiến tranh làm xa cách, tạo
điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh.
+ Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền. Xã hội ấy vận động trên cơ
chế:
“Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại
chẳng qua vì tiền”.
Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã Giám
Sinh - một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo
đếm, cò kè…
Cũng vì đồng tiền, Túi Bà và Mã Giám Sinh đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp,
khiến nàng phải đau đớn, đắng cay suốt mười lăm năm lưu lạc, phải “thanh lâu
hai lượt, thanh y hai lần”.
- Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thúy Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải
nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
3.
Khái quát, nâng cao
- Người phụ nữ trong hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều” hội tụ những vẻ đẹp đáng quý
nhất và cũng là đầy đủ những gì đau khổ, tủi nhục nhất của con người. Họ là đại
diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.
- Viết về người phụ nữ, các nhà văn,nhà thơ đã đứng trên lập trường nhân sinh
để bênh vực cho họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt các thể lực đã gây ra nỗi đau khổ cho họ.
- Liên hệ với cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
III – Kết bài
Nêu
cảm nghĩ của bản thân về cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Đề
bài 2
" Văn học trung đại nước ta, sau những vấn đề đấu tranh xã hội,
còn thường đề cập đến vấn đề đạo
đức gia đình, đặc biệt là luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ.”
Qua một số tác phẩm văn
học trung đại mà em đã học và đọc thêm trong chương trình Ngữ văn lớp 9, hãy làm sáng tỏ nội dung: “Văn học
trung đại nước
ta luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ”.
Theo em, trong thời đại
ngày nay, vấn đề đạo đức gia đình có còn quan trọng không? Vì sao?
Dàn ý chi tiết:
I- Mở bài
Giới thiệu để nêu vấn đề: “Văn
học trung đại nước
ta luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ”.
II- Thân bài
1. Giải thích: chữ hiếu theo quan niệm thời xưa: Theo Nho giáo, hiếu là một khái niệm đạo đức nền tảng,
là cái gốc của mọi vấn đề về đạo đức, chính trị. Trong xã hội phong kiến Việt Nam
luôn lấy “hiếu”làm chuẩn mực trong xã hội, làm tiêu chuẩn rèn luyện và
đánh giá nhân cách con người, lấy hiếu để buộc người và người. Hiếu vốn là một
nội dung quan trọng của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam, đó là:
"Nết đầu trong trăm nết”, đạo hiếu hình thành lâu đời trong những
phong tục của người Việt như: thờ cúng tổ tiên, kính trọng người già, tôn trọng
cha mẹ… Thậm chí, Nho giáo đã thể chế hóa thành những luân lý, đạo đức của xã
hội. Thời Lý - Trần, Nho giáo chưa ảnh hưởng nhiều vào trong đời sống xã hội,
sang thời Lê - Nguyễn, Nho giáo trở thành công cụ tư tưởng chi phối xã hội, chú
trọng vấn đề gia đình, coi gia đình là cơ sở quan trọng bậc nhất để thiết lập
kỷ cương, ổn định trật tự xã hội.
1. Phân tích, chứng minh làm sáng tỏ vấn đề: Văn học cổ
nước ta luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ.
Học sinh có thể có một số cách đưa dẫn chứng và phân
tích khác nhau, nhưng trong quá trình chứng minh, bài làm cần đảm bảo một số ý
cơ bản sau:
Văn học trung đại là tấm gương trung thực phản ánh những cuộc đấu tranh của dân tộc chống xâm lược, những cuộc đấu tranh xã hội chống áp
bức bất công. Nhưng bên cạnh đó, văn học trung đại còn đề cập tới vấn đề đạo
đức gia đình. Không ít tác phẩm trung đại đã nêu cao những hình ảnh cảm động,
những tình cảm đẹp đẽ về mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ, giữa vợ với chồng
và anh chị em với nhau. Trong đó có rất nhiều tấm gương hiếu thảo làm cảm động lòng người:
- Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ) đã thay chồng vắng nhà hết lòng phụng dưỡng
mẹ chồng, chăm sóc thuốc thang chu đáo khi mẹ chồng lâm bệnh, rồi lo liệu ma
chay chu đáo cho mẹ chồng khi bà qua đời như đối với cha mẹ đẻ mình.
- Nàng Thúy Kiều (“Truyện Kiều” - Nguyễn Du):
+ Trong cơn gia biến, nàng đã phải hi sinh chữ
tình để làm tròn chữ hiếu quyết định bán mình cứu cha và gia đình khỏi cơn nguy
biến.
+ Trong suốt thời gian lưu lạc, chìm nổi, khổ
đau, nàng vẫn không lúc nào nguôi quên cha mẹ, bao lần xót xa, thương cha già mẹ yếu nơi góc bể chân trời.
- Lục Vân Tiên (Truyện "Lục Vân Tiên”- Nguyễn Đình Chiểu) là hiện
thân của nhân nghĩa nói chung, đạo hiếu nói riêng: Ra kinh đô, sắp vào trường
thi, nhận được tin mẹ mất, chàng liền bỏ thi về chịu tang. Vân Tiên khóc thương
mẹ thành lâm bệnh, trên đường về mù cả hai mắt.
- Kiều Nguyệt Nga vì lòng lòng hiếu thảo mà thân gái dặm
trường, vượt ngàn dặm xa về “lo bề nghi gia” theo
lời cha dạy.
3. Vấn đề đạo đức gia đình trong thời đại ngày nay
Người Việt Nam
ngày nay rất coi trọng chữ hiếu theo đạo lý của ông bà ta xưa. Chữ hiếu ở đây
không chỉ đơn thuần là việc chăm sóc khi cha mẹ đau yếu, nghi lễ khi tang ma...
mà cả trong hành động, nghe theo lời khuyên bảo đúng đắn hàng ngày của cha mẹ,
không làm điều gì tổn hại đến thanh danh của gia đình dòng tộc, làm rạng danh
cho gia đình bằng sự thành công trong học tập và sự nghiệp. Điều này được quy
định trong Điều 35 Luật Hôn nhân gia đình: “Con có bổn phận yêu quý, kính
trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn
của cha mẹ, giữ gìn danh dự truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con có nghĩa vụ
và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành
hạ, xúc phạm cha mẹ”. Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định nghĩa vụ
cấp dưỡng của con đối với cha mẹ: “Con đã thành niên không sống chung với cha
mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình”. Theo pháp luật hiện hành, con cái bất hiếu, vi phạm nghĩa
vụ làm con đối với cha mẹ, tùy tính chất, mức độ của hành vi cụ thể sẽ bị xử lý
vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Từ đó, học sinh cần làm rõ được trong bài viết của mình:
Trong thời đại ngày nay, vấn đề đạo đức gia đình vẫn vô cùng quan trọng
đồng thời lí giải được vai trò, tầm quan trọng của đạo đức gia đình cũng như
tấm lòng hiếu thảo của con người trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội:
- Đạo đức gia đình, đặc biệt là tấm lòng hiếu thảo giúp con
người sống tốt hơn, đẹp hơn, có nhân nghĩa ân tình.
- Đạo đức gia đình vẫn là thước đo nhân cách con người.
- Nó còn là nấc thang của mỗi người để tiến tới tấm lòng
trung hiếu, thể hiện lẽ sống hết mình vì nước vì dân.
- Không thể có kẻ bất hiếu, sống tồi tệ trong một gia đình
mà lại có thể trở thành công dân tốt, trung với nước hiếu với dân được...
III- Kết bài
Liên hệ tới hành động của bản thân.
Đề
bài 3
Em
học tập được điều gì từ các nhân vật phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung
đại đã học? Hãy đưa ra cách xử lý của bản thân cho một số tình huống mà các nhân vật nữ trong các tác
phẩm này phải đối diện.
Hướng dẫn:
HS có thể trình bày theo hai ý chính sau:
1. Điều
học tập được từ các nhân vật nữ trong các tác phẩm văn học trung đại:
- Giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp, có tính
truyền thống của con người Việt Nam:
hiếu thảo, thủy chung, dám hi sinh những quyền lợi bản thân vì người thân...
- Có ước mơ, khát vọng sống cao đẹp...
2. Đề xuất cách xử lý trước một số tình huống mà
các nhân vật phụ nữ trong các tác phầm văn học trung đại phải đối diện:
Ví dụ:
- Nhân vật Vũ Nương trong " Chuyện người con gái Nam Xương" của
Nguyễn Dữ khi bị chồng nghi oan là thất tiết, đã không thể tìm được cách minh
oan nào khác ngoài việc trẫm mình xuống sông tự vẫn. Người phụ nữ trong thời
hiện đại sẽ không làm như vậy mà phải biết tự minh oan cho mình trong chính
cuộc sống dương gian. Có thể mạnh mẽ đấu tranh bằng lí lẽ của bản thân, bằng sự
giúp đỡ của gia đình, người thân, bằng pháp luật...
- Nhân vật Thúy Kiều trong " Truyện Kiều" của Nguyễn Du
tìm đến cách bán thân mình để lấy tiền chuộc cha. Trong xã hội phong kiến thì
đó là cách duy nhất Kiều có thể làm để báo đền chữ hiếu. Nhưng trong thời hiện
đại, trước những gia biến đó, người phụ nữ có thể tìm đến nhiều cách khác: dựa
vào luật pháp để đấu tranh đòi sự công bằng; nhờ sự giúp đỡ của người thân, bè
bạn...
Ngoài ra HS có thể lựa chọn các tình huống khác và đưa ra được cách ứng
xử phù hợp.
Đề bài 4
Thương
cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, Nguyễn Du đã từng
viết:
" Đau
đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc
mệnh cũng là lời chung."
Hãy
làm sáng tỏ ý thơ trên qua nhân vật Vũ Nương ( trong " Chuyện người con
gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ) và nhân vật Thúy Kiều ( trong " Truyện
Kiều" của Nguyễn Du). Từ đó em có suy nghĩ gì về người phụ nữ xưa và nay?
Dàn ý chi tiết:
I – Mở bài
- Giới thiệu được vấn đề cần nghị
luận : Thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ .
- Trích dẫn ý thơ.
II – Thân bài
1. Giải thích
- “Phận” là thân phận, số phận. Theo quan niệm cũ số phận
của con người được sung sướng hay đau khổ là do một thế lực huyền bí, thiêng
liêng định đoạt. Câu thơ thứ nhất là lời cảm thán cho số phận đàn bà đau khổ.
- “Bạc mệnh” hay mệnh bạc là số phận, số mệnh tiền
định mỏng manh, đen tối, trải qua nhiều đau thương bất hạnh. “Bạc mệnh” không
chỉ riêng ai mà là “lời chung”, là số phận đáng thương của hầu hết mọi người
phụ nữ trong xã hội cũ.
- Hai câu thơ trên là tiếng khóc của Thuý Kiều
khi đứng trước nấm mồ Đạm Tiên trong một buổi chiều thanh minh. Đó là tiếng
khóc của nàng cho mọi người phụ nữ tài hoa bạc mệnh ngày xưa, và cũng tự khóc
cho đời mình mai sau (sự cảm). Ý thơ mang tính chất khái quát rất cao, biểu
hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du qua "Truyện Kiều". Tác giả dùng biện pháp đảo ngữ đẩy hai từ “đau đớn” lên
đầu câu để cho thấy tâm trạng xót thương vô cùng cho số phận của những người
phụ nữ liễu yếu đào tơ. Hai câu thơ trên đã nói lên bi kịch về thân
phận của người phụ nữ ngày xưa: đau khổ, bạc mệnh.
2.
Chứng minh trong 2 tác phẩm
*Trong " Chuyện người con gái Nam Xương"
- Vũ Thị Thiết là hiện thân của người phụ nữ đẹp người đẹp
nết trong xã hội cũ. Nàng vốn là con kẻ khó thuộc tầng lớp bình dân nhưng cũng
như bao người phụ nữ khác nàng có khát khao, có ước mơ giản dị muôn đời: "
Thú vui nghi gia nghi thất". Ở nàng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp chuẩn mực của xã
hội: công, dung, ngôn, hạnh.
- Số phận của nàng lại vô cùng bất hạnh:
+ Nàng sống trong hôn nhân không tình yêu.(
Dẫn chứng)
+ Người chồng gia trưởng, vũ phu, ghen tuông
mù quáng. ( Dẫn chứng)
+ Để chứng minh sự trong sạch, nàng chỉ còn
cách nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử.
=> Có thể nói hạnh phúc của nàng không thể
có trong cuộc sống trần gian.
* Trong " Truyện Kiều"
- Thúy Kiều là người phụ nữ hoàn mĩ, đẹp từ nhan sắc đến
tài năng và tâm hồn. ( Dẫn chứng)
- Thế nhưng số phận của Thúy Kiều cũng vô cùng bất hạnh:
+ Nàng Kiều
là nạn nhân của xã hội đồng tiền. Xã hội ấy vận động trên cơ chế:
“Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại
chẳng qua vì tiền”.
Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã
Giám Sinh - một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong,
đo đếm, cò kè…
Cũng vì đồng tiền, Túi Bà và Mã Giám
Sinh đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, đắng cay
suốt mười lăm năm lưu lạc, phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
+ Kiều cũng đã nhiều lần muốn vùng ra
thoát khỏi cái cuộc đời đầy nhơ nhớp
nhưng mỗi lần nàng cố vùng vẫy để thoát ra lại là một lần nàng bị nhấn
sâu thêm xuống vũng bùn nhơ nhớp đó.
+ Nguyễn Du đã sống
trong một thời đại đen tối là lúc chế độ phong kiến suy tàn, đầy rẫy thối nát,
bất công và dã man. “Truyện Kiều” đã phản ánh một cách sống động và chân thực
cái hiện thực đen tối ấy của xã hội phong
kiến:
Trải qua một cuộc
bể dâu,
Những điều trông
thấy mà đau đớn lòng.
3. Liên
hệ trong xã hội ngày nay
- Trong xã hội phong kiến bất
công, " trọng nam khinh nữ", người phụ nữ phải lệ thuộc vào người
nam, không có quyền hành trong gia đình và xã hội. Bên cạnh đó là sự tàn bạo
của xã hội đồng tiền, sự bất công của bè lũ quan lại khiến người có tài sắc
thường bị vùi dập, bất hạnh. Đó là hiện thực xót xa.
- Trong thời đại ngày nay, nhân
dân ta đã làm chủ đất nước, nam nữ bình đẳng, mỗi người đều có quyền làm chủ
vận mệnh của mình. Người phụ nữ
giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền
quyết định số phận của mình. Người phụ nữ được giải phóng, người phụ nữ
được cùng chồng làm chủ gia đình của mình, nhiều người còn nắm giữ những chức
vụ, trọng trách quan trọng trong xã hội. Như vậy, những câu thơ sâu sắc của
Nguyễn Du rằng: " Đau đớn thay phận
đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" không còn giá trị khái
quát như một quy luật nữa.
- Người phụ nữ ngày nay vẫn luôn
giữ cho mình vẻ đẹp truyền thống đáng trọng của người phụ nữ xưa đồng thời họ
có thêm bản lĩnh, tự tin, mạnh mẽ để khẳng định mình trong gia đình và xã hội.
Họ đang tỏa sáng làm đẹp cuộc đời như nhà thơ Huy Cận đã từng viết: " Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử/
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ."
- Tuy nhiên tàn dư của chế độ cũ vẫn còn rơi rớt trong nhận thức,
hành vi của một số kẻ, một số vùng. Ví dụ
nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến, nhất là ở nông thôn;
phân biệt đối xử giữa con trai con gái vẫn còn có ở một số gia đình; hay ở một
số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục
lợi làm giàu...Vì vậy, thế
giới nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng vẫn cần tiếp tục đấu tranh cho nhân
quyền của người phụ nữ để họ phát huy tài năng và trí tuệ của mình đóng góp vào
xây dựng quê hương đất nước. Những hành vị xúc
phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm
khắc.
III – Kết bài
Khái quát lại giá trị của vấn đề.
Đề bài 5
“Tinh thần nhân đạo trong văn học trước hết là tình yêu thương con
người.”
(Đặng Thai Mai - “Trên đường học tập và nghiên cứu” - NXB Văn học 1969).
Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ (SGK Ngữ văn 9, tập 1) em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Từ tác
phẩm này em có suy nghĩ gì về vấn đề hôn nhân và hạnh phúc gia đình?
Dàn ý chi tiết:
I – Mở bài
- Giới
thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý
kiến.
II – Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Nhân đạo là những nguyên tắc đạo lí đối xử giữa con người với con
người.
- Tinh thần nhân đạo trong văn
học là lòng nhân ái, là ngợi ca những vẻ đẹp của con người, là cảm thông
với những nỗi khổ đau, bất hạnh và lên tiếng bênh vực, đấu tranh đòi quyền
sống, quyền hạnh phúc con người. Nhân đạo còn là tiếng nói trân trọng, đề cao
những ước mơ, khát vọng của con người.
2. Chứng minh qua văn bản "Chuyện
người con gái Nam
Xương"
* Tinh thần nhân đạo - tình yêu
thương con người được Nguyễn Dữ thể hiện trong Chuyện người con gái Nam
Xương trước hết là ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là người phụ nữ
bình dân có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: công, dung,
ngôn, hạnh. Xét về phương diện nào cũng đẹp:
+ Là một người vợ: đối với chồng,
nàng là người vợ rất mực dịu dàng, đằm thắm, giàu tình thương yêu chồng và thủy
chung nhất mực (dẫn chứng).
+
Là một người con: đối với mẹ chồng, nàng hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng, là
người con dâu hiếu thảo (dẫn chứng).
+
Là một người phụ nữ, người mẹ: đảm đang, yêu con hết mực, trọng danh dự và nhân
phẩm, tình nghĩa và giàu lòng vị tha (dẫn chứng).
*Tinh thần
nhân đạo - tình yêu thương con người còn được thể hiện ở thái độ cảm thông đau
xót: Am hiểu tâm lí nhân vật, thương cảm cho nỗi đau của người phụ nữ nên nhà
văn đã thể hiện nỗi đau đớn của nhân vật sâu sắc:
+ Nàng Vũ Nương có đầy đủ phẩm
chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tụy vun đắp hạnh phúc
lại chẳng được hưởng hạnh phúc cho xứng với sự hi sinh của nàng.
+ Chờ chồng đằng đẵng, chồng về
chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một duyên cớ rất vu vơ. Nàng hết mực
van xin chàng nói rõ nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ, hàng xóm rõ nỗi oan
của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột
cùng... mà người chồng vẫn không động lòng (dẫn chứng).
+
Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái
chết oan khuất (dẫn chứng).
* Tinh thần nhân đạo - tình yêu
thương con người còn được Nguyễn Dữ thể hiện trong thái độ lên án những thế lực
đen tối, chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người:
+ Chiến tranh phi nghĩa.
+ Những tư tưởng lạc hậu của xã hội phong kiến
suy tàn (trọng nam khinh nữ, lễ giáo hà khắc, đạo tòng phu, ...) gây bao nhiêu
bất công, hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông hồ
đồ, mù quáng, gia trưởng, vũ phu.
* Tinh thần nhân đạo - lòng yêu
thương con người còn thể hiện pở sự nâng niu, trân trọng những ước mơ, khát
vọng tốt đẹp chính đáng của con người:
- Khát vọng suốt cuộc đời Vũ
Nương là cuộc sống gia đình ấm êm, hạnh phúc.( Dẫn chứng qua hành động nàng
luôn giữ gìn khuân phép không lúc nào để gia đình dẫn đến thất hòa; lời nói của
nàng lúc tiễn chồng đi lính; lời van xin tha thiết của nàng khi chồng nghi
oan).
- Đến lúc đã ở Thủy cung nàng vẫn
không nguôi nỗi nhớ gia đình, chồng con; vẫn xót xa nghĩ về phần mộ tổ tiên...
- Nàng luôn khát khao được rửa
sạch nỗi nhục, được minh oan dù đã không còn trên trần thế.( Dẫn chứng)
3. Từ tác phẩm, suy nghĩ về vấn đề hôn nhân và hạnh phúc gia đình
Là một học sinh THCS, nhận thức về vấn đề
này có thể chưa sâu sắc, nhưng từ văn bản học sinh có thể rút ra một số ý chính
như:
- Trong xã hội bình quyền thì hôn
nhân phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu, được tôn trọng và pháp luật bảo
vệ.
- Có hạnh phúc đã là sự may mắn
nhưng giữ gìn, duy trì hạnh phúc còn khó hơn. Vợ và chồng dù có yêu nhau đến
mấy mà chẳng hiểu tính của nhau thì bi kịch sớm muộn cũng xảy ra và điều quan
trọng hơn hết là để có được hạnh phúc thì phải thực sự hiểu được nhau, tôn
trọng lẫn nhau, tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc...
III – Kết bài
Thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương, nhà văn Nguyễn
Dữ ngợi ca vẻ đẹp, cảm thương sâu sắc với nỗi bất hạnh và đề cao khát vọng hạnh
phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời lên án thế lực đen tối
của xã hội phong kiến đã trà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
Đó cũng chính là xuất phát từ tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
KẾT LUẬN
Ngày nay, người phụ nữ đã chiếm một vị trí quan trọng
trong gia đình và ngoài xã hội. Bởi lẽ cái xã hội “trọng nam khinh nữ” đã bị
xóa bỏ mà thay vào đó là một xã hội “công bằng, bình đẳng, nam nữ bình quyền”.
Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam làm mất đi vẻ thuần phong mĩ
tục vốn có của mình mà họ còn vẫn giữ được phẩm chất, vẻ đẹp truyền thống. Điều
đặc biệt hơn là họ có cá tính mạnh mẽ hơn, dám đấu tranh triệt để vì hạnh phúc,
vì quyền lợi của chính mình và phấn đấu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Có ai đó nói rằng: “Người phụ nữ là một nửa thế giới”.
Và quả thật, họ đã đi vào những trang viết chảy suốt trong văn học từ trước đến
nay, để rồi không chỉ làm nên một nửa, mà là trọn vẹn tấm hình trong sâu thẳm
tâm hồn thế hệ người đọc hôm nay và cả mai sau:
Chị em tôi
tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ
Sưu tầm