Mộc Nhân-Lê Đức Thịnh
Có những con người thầm lặng vô danh nhưng
sự cống hiến của họ đã gợi cho ta nhiều suy ngẫm; có những miền đất lặng lẽ
nhưng ở đó có những con người đang ngày đêm làm việc, hi sinh cho đất nước.
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành
Long đã để lại cho người đọc những ấn tượng khiến mỗi chúng ta phải trân trọng
và cảm phục về những con người, những tấm lòng như vậy. Họ là những con người
sống đẹp, có lí tưởng, có ước mơ.
Truyện
xoay quanh tình huống cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư trẻ và anh
thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa. Anh gây ấn
tượng qua lời giới thiệu của bác lái xe:
- Tôi
sắp giới thiệu với bác một trong những người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác
cũng thích vẻ hắn.
Chỉ
vậy thôi nhưng anh đã khiến cô bất giác đỏ mặt lên!
- Một
anh thanh niên hai mươi bảy tuổi! Đây là đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm
mét. Anh ta làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Cách đây bốn năm, có
hôm tôi cũng đang đi thế này chợt thấy một khúc thân cây chắn ngang đường, phải
hãm lại. Một anh thanh niên ở đâu chạy đến, hè với tôi và khách đi xe đẩy khúc
cây ra một bên cho xe đi. Hỏi ở đây mà ai đẩy cây ra giữa đường thế này, anh
chỉ đỏ mặt. Thì ra anh ta mới lên nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi,
bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh ta kiếm kế
dừng xe lại để gặp chúng tôi, nhìn trông và nói chuyện một lát. Kìa, anh ta
kia.
Những
lời giới thiệu trước ấy làm nhà họa sĩ già xúc động mạnh khi nhìn thấy người
con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại
chỗ xe đỗ. Ông không chú ý cô con gái cũng víu chặt vào vai ông, nửa vì tò mò,
nửa vì để tự vệ chống lại một cái gì đó.
Anh thanh niên làm công tác khí tượng
kiêm vật lý địa cầu. Anh sống một mình trên núi cao, quanh năm suốt tháng giữa
mây mù, núi cao Sa Pa.
Hãy nghe anh kể về công
việc của mình: “Công việc của cháu cũng quanh quẩn ở mấy chiếc máy
ngoài vườn này thôi. Những cái máy vườn trạm khí tượng nào cũng có. Dãy núi này
có ảnh hưởng quyết định với gió mùa đông bắc đối với miền Bắc nước ta. Cháu ở
đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào
việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Đây là
máy móc của cháu. Cái thùng đo mưa này, ở đâu bác cũng trông thấy, mưa xong đổ
nước ra cái cốc li phân mà đo. Cái này là máy nhật quang kí, ánh sáng mặt trời
xuyên qua cái kính này, đốt các mảnh giấy này, cứ theo mức độ, hình dáng vết
cháy vết cháy mà định nắng. Đây là máy vin, nhìn khoảng cách giữa các răng cưa
mà đoán gió. Ban đêm không nhìn mây, cháu nhìn gió lay lá, hay nhìn trời, thấy
sao nào khuất, sao nào sáng, có thể nói được mây, tính được gió. Cái máy nằm
dưới sâu kia là máy đo chấn động vỏ quả đất. Cháu lấy những con số, mỗi ngày
báo về “nhà” bằng máy bộ đàm: bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ
sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”. Công việc nói chung dễ, chỉ cần chính
xác.”
Công việc của anh dự vào
việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Công
việc nói chung là dễ, chỉ cần chính xác, tỉ mỉ và đòi hỏi tinh thần trách
nhiệm.
Tuy nhiên để thực hiện công
việc ấy thì cũng lắm gian khổ. Anh kể: “Gian khổ nhất là lần ghi và báo về
lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong
chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn
bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và
lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó
mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi
muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng
hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.”
Nhưng gian khổ nhất vẫn là vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng
một mình trên núi cao không một bóng người. Thế điều gì đã giúp anh vượt qua
được hoàn cảnh ấy ?
- Trước hết đó là ý thức về công việc của mình. Anh thấy rằng công việc thầm
lặng của mình là có ích cho cuộc sống, cho mọi người. Công việc của anh chỉ là
một mắc xích nhỏ trong chuỗi công việc của nhiều người, của cả xã hội nhưng nó
góp phần vào hoạt động sản xuất và chiến đấu của cả nước. Anh kể:“Cháu có
ông bố tuyệt lắm. Hai bố con cùng viết đơn xin ra lính đi mặt trận. Kết quả: bố
cháu thắng cháu một - không. Nhân dịp Tết, một đoàn các chú lái máy bay lên
thăm cơ quan cháu ở Sa Pa. Không có cháu ở đấy. Các chú lại cử một
chú lên tận đây. Chú ấy nói: nhờ cháu có góp phần phát hiện một đám mây khô mà
ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ đựơc bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm
Rồng. Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại là như thế. Chú lái máy bay
có nhắc đến bố cháu, ôm cháu mà lắc “Thế là một - hòa nhé!”. Chưa hòa đâu bác
ạ. Nhưng từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc.”
Con người quả thật là không
thể cô đơn bởi vì giữa mọi người có biết bao mối quan hệ ràng buộc tác động vào
nhau để cùng tồn tại. Anh thanh niên đã hiểu điều ấy nên anh đã sống và làm
việc với ý thức trách nhiệm đầy đủ của một con người.
- Anh đã có những suy nghĩ thật đúng đắn và sâu sắc về công việc đối với cuộc
sống con người: “- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ
mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây
giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta việc, ta với công việc
là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của
bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó
đi, cháu buồn đến chết mất. Còn người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra
là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế
đấy. Bác lái xe đi, về Lai Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp”
là cháu chạy xuống chơi, lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ
người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng. Cháu
ở liền trong trạm hằng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc,
cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành
lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy, bác cũng chẳng “thèm” người là gì?”
Anh sống một mình trên núi
cao, ở đó quanh năm chỉ có bầu trời với những đám mây, sương mù và giá lạnh.
Tuy cô độc nhưng anh không hề cô đơn bởi tâm hồn anh luôn gần gũi con người và
ấm áp tình người.
Anh luôn khao khát được gặp
gỡ và trò chuyện với con người đến mức “thèm người”. Anh nghĩ
ra cái mẹo vừa thông minh vừa tinh nghịch là lăn khúc cây ra giữa đường để xe
dừng lại, dẫu chỉ trong chốc lát để anh được gặp gỡ và trò chuyện với mọi
người. Không ai trách anh điều ấy vì họ thông cảm với anh. Bác lái xe còn xử sự
rất đúng khi bác đã cho xe dừng lại mỗi khi đi qua đây để được gặp gỡ và tỏ
lòng yêu quí một con người có tâm hồn trong sáng như anh.
Sống một mình khiến người ta dễ trở nên buông thả, bất cần. Chính ông hoạ sĩ
cũng thoáng có ý nghĩ như thế về anh “Chắc cu cậu chưa kịp quét tước
dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn.” Nhưng khi đến thăm nơi ở và chỗ
làm việc của anh, mọi người đều thấy chẳng những nó không hề bừa bộn mà còn
sạch sẽ tinh tươm nữa : một căn nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu
đồ…
Thì giờ ngắn ngủi còn
lại thúc giục cả chính người họa sĩ già. Ông theo liền anh thanh niên vào trong
nhà, đảo nhìn qua một lượt trước khi ngồi xuống ghế. Một căn nhà ba gian, sạch
sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh
thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc gường con, một chiếc bàn
học, một giá sách. Họa sĩ còn đang nheo mắt cố đọc tên các sách trên giá thì cô
gái đã bước tới, dường như làm việc ấy hộ bố. Cô không trở lại bàn giữa và ngồi
ngay xuống trước chiếc bàn học con, lật xem bìa một cuốn sách rồi để lại nguyên
lật mở như cũ. Cuộc
đời riêng của anh thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc
bàn học, một giá sách. Nếp sống hằng ngày của anh được tổ chức có nề nếp: làm
việc, ăn uống, nghỉ ngơi, đọc sách báo, như đang sống giữa một xã hội chứ không
phải chỉ có một mình anh.
Anh thanh niên còn biết làm đẹp cho cuộc sống tâm hồn của mình bằng việc trồng
hoa. Mọi người rất ngạc nhiên khi thấy giữa nơi núi cao lại gặp một vườn hoa
với bao nhiêu loài hoa, sắc hoa.
Ngoài ra anh còn biết làm
phong phú cho đời sống tinh thần của mình bằng việc đọc sách. Anh nói : lúc
nào tôi cũng có người để trò chuyện, nghĩa là có sách ấy mà. Đọc sách
giúp anh bớt cô đơn, buồn tẻ, tìm thấy niềm vui .
Có thể nói anh là người có
lối sống đẹp, biết làm đẹp cho cuộc sống vật chất và tinh thần của mình. Anh biết
tổ chức, sắp xếp cuộc sống của mình thật ngăn nắp chủ động. Cái đẹp ấy bắt
nguồn từ một tâm hồn đẹp, một bản chất tốt đẹp.
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa
những con người mới gặp nhau lần đầu nhưng dường như giữa họ không có khoảng
cách. Anh thanh niên đã bộc lộ sự thân tình giữa mình với mọi người qua cuộc
chuyện trò vui vẻ, thân mật:“Người con trai nói to những điều đáng lẽ người
ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều ta ít nghĩ. Việc ấy làm bác già và cô gái cảm
động và cuốn hút ngay. Cô ôm bó hoa vào ngực, bạo dạn nhìn thẳng vào mặt anh.
Anh thanh niên bắt gặp cái nhìn đó, phủi vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm
cười, hạ giọng hỏi:
- Cũng đoàn viên, phỏng?
- Vâng - cô gái sẽ nói.
- Thôi, chấm dứt tiết
mục hái hoa - Người con trai bất chợt quyết định - Bác lái xe chỉ cho ba mươi
phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu năm phút. Còn hai
mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe
chuyện dưới xuôi lắm.”
Trong ba mươi phút trò
chuyện, tác giả đã để cho anh nói hầu hết. Anh nói về công việc, cuộc sống của
mình bằng những lời nói cởi mở, chân thành, có pha giọng vui đùa, hóm hỉnh.
Điều ấy chứng tỏ anh là con người bộc trực, thẳng thắn, dễ gây thiện cảm cho
mọi người.
Thái độ quan tâm đến mọi
người không chỉ vì niềm vui của chính mình mà còn là tấm lòng yêu mến và quí
trọng con người.
Anh chu đáo trao cho bác
lái xe gói củ tam thất để cho vợ bác ấy“ngâm rượu bồi dưỡng sức
khoẻ” vì nghe nói vợ bác ấy ốm. Anh có những cử chỉ hiếu khách đặc
biệt như cắt một bó hoa rõ to để tặng cô gái với những lời lẽ chân thành, thật
thà: - Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý.
Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cô thích. Tôi không biết kỷ
niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai
đến thăm nhà tôi từ tết. Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ
bốn năm nay.
Ai lại không hởi lòng hởi
dạ trước một cách đón khách trân trọng, thật thà như thế.
Với bác hoạ sĩ già, anh đã
đưa cái món nước chè pha nước mưa thơm như nước hoa để mời bác ấy. Chẳng những
thế anh còn tặng mọi người một làn trứng để ăn trưa lúc chia tay. Sự ân cần chu
đáo ấy suy cho cùng là lòng hiếu khách, nỗi thèm người của một con người có
lòng nhân hậu đáng mến.
Cô kĩ sư trẻ mới ra trường
đi nhận công tác ở vùng núi cao, gặp gỡ và tiếp xúc với anh thanh niên đã khiến
cô bàng hoàng, cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của anh, về
cái thế giới những con người như anh. “Những điều cô cùng nghe, cộng
với những điều cô khám phá thấy trên hai trang sách hay đang đọc dở của người
con trai làm cô bàng hoàng. Có phải cái ánh sáng trong quyển sách rọi sang, làm
cho cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về
cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con đường cô đang đi tới?
Có phải cái cảm giác bàng hoàng, đáng lẽ cô phải biết khi cô yêu, bây giờ cô
mới biết, giúp cô đánh giá đúng hơn mối tình nhạt nhẽo mà cô đã bỏ, và yên tâm
hơn về quyết định của mình? Một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô
gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra
đời. Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu
nhiên anh cho thêm cô.” Nghe câu chuyện của anh, trong cô bừng
dậy những tình cảm lớn lao, cao đẹp và sự hàm ơn đối với anh vì anh đã giúp cô
yên tâm hơn với quyết định của mình trên con đường mà cô đang lựa chọn và đi
tới. Và giây phút từ biệt dường như có điều gì thật quyến luyến: “Đến lượt
cô gái từ biệt. Cô chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng, như người ta
cho nhau cái gì chứ không phải là cái bắt tay. Cô nhìn thẳng vào mắt anh -
những người con gái sắp xa ta, biết không bao giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như
vậy. - Chào anh.”
Đáng quí nhất ở anh là tính
khiêm tốn. Trong cuộc gặp gỡ trò chuyện, anh chỉ nói về mình thật ít, chủ yếu
là giới thiệu cho mọi người những điều họ cần biết về công việc và cuộc sống
của anh.
Bác hoạ sĩ đã bắt gặp ở anh
những vẻ đẹp đáng yêu khơi gợi một ý sáng tác, bác muốn ghi lại hình ảnh của
anh bằng những nét bút kí hoạ. “Phải, người họa sĩ già vừa nói chuyện,
tay vừa bất giác hí hoáy vào cuốn sổ tì lên đầu gối. Hơn bao nhiêu người khác,
ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ
đại là cuộc đời. Ông thấy ngòi bút của ông bất lực trên từng chặng đường đi nhỏ
của ông, nhưng nó như là một quả tim nữa của ông, hay chính là quả tim cũ được
“đề cao” lên, do đó mà ông khao khát, mà ông yêu thêm cuộc sống. Thế nhưng, đối
với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan. Làm
một bức chân dung, phác họa như ông làm đây, hay rồi vẽ dầu, làm thế nào làm
hiện lên được mẫu người ấy? Cho người xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu
như một ngôi sao xa? Và làm thế nào đặt được chính tấm lòng của nhà họa sĩ vào
giữa bức trnh đó? Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn
hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành được sáng tác còn là một chặng đường dài.
Mặc dù vậy, ông đã chấp nhận sự thử thách.”
Nhưng anh thành thực cho
rằng công việc và những đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. “Để khỏi vô
lễ, người con trai vẫn ngồi yên cho ông vẽ, nhưng cho là mình không xứng với
thử thách ấy, anh vẫn nói:
- Không, bác đừng mất công vẽ cháu! Cháu
giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa ! Ngày này sang ngày khác
ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su
hào. Rồi, để được theo ý mình, tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày chín mười giờ
sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong. Hàng vạn cây như
vậy. Để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngon hơn
trước. Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá. Bác về Sa Pa vẽ ông ta đi,
bác. Hay là, đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu ở dưới ấy đấy. Có thể
nói đồng chí ấy trong tư thế sẵn sàng suốt ngày chờ sét. Nửa đêm mưa gió rét
buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thế mười một năm.
Mười một năm không một ngày xa cơ quan. Không đi đến đâu mà tìm vợ. Đồng chí cứ
sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Đồng chí đang làm một cái bản đồ sét riêng cho
nước ta. Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của chìm sâu
trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm. Trán đồng chí cứ hói dần đi. Nhưng
cái bản đồ sét thì sắp xong rồi.”
“Cũng may mà bằng mấy
nét, họa sĩ ghi xong lần đầu gương mặt của người thanh niên. Người con trai ấy
đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy
nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi vọi hai nghìn
sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người. Những điều suy
nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác
trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng. Ví dụ như quan niệm
về cái đất Sa Pa mà ông quyết định sẽ chỉ đến để nghỉ ngơi giai đoạn cuối trong
đời, mà ông yêu nhưng vẫn còn tránh.”
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là bức chân dung chân thực, sống động về những con
người bình dị nhưng có vẻ đẹp tâm hồn cao quí. Anh thanh niên dù chỉ xuất hiện
trong thời gian ngắn ngủi trong truyện nhưng tác giả đã phác hoạ thành công
chân dung nhân vật với những nét đẹp về công việc, về tâm hồn, tình cảm, về
cách sống, tính cách.
Anh thanh niên là nhân vật
chính trong truyện nhưng tác giả cũng không đặt tên, đây cũng là dụng ý nghệ
thuật để nói lên rằng anh là một con người bình thường, làm những công việc
bình thường, sống và làm việc âm thầm lặng lẽ không cần ai biết tên, không cần
vinh danh… Nhưng điều đáng quí ở anh và những con người như anh là sự hi sinh
và lo nghĩ cho đất nước.
“Lặng lẽ Sa Pa” là truyện ngắn giàu chất thơ. Chất
thơ ấy toát ra từ những đoạn văn miêu tả vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên vùng
núi cao: “Rời cầu cây số 4 một quãng, xe trèo lên núi. Mây hắt từng
chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng. Chỉ thấy thấp thoáng trong màu xanh bao
la, ở phía trước, một vệt hình ba góc màu vàng, chính là đoạn đường mình vừa đi
qua. Đi một lúc lâu, ngửng lên, vẫn thấy cái vệt ba góc đó. Đến bây giờ, người
lái xe già mới cất tiếng nói: - Con suối có thác trắng xoá ta vừa qua là trạm
rừng. Một lúc nữa thì tới Sapa. Bác không ghé thăm Sapa ư? Họa sĩ nào cũng đến
Sapa! Ở đấy tha hồ mà vẽ.”
Vẻ đẹp của Sa Pa hiện ra
trong sự ngỡ ngàng của các nhân vật bác họa sĩ với những hình ảnh thật đáng yêu
khơi gợi cảm hứng sáng tác ở người nghệ sĩ: “- Chúng ta vừa qua Sa Pa ,
bác không nhận ra ư? - Người lái xe bỗng nhiên lại hỏi.
- Có.
Tôi có nhận ra. Sa Pa bắt đầu với những rặng đào. Và với những đàn bò lang cổ
có đeo chuông ở các đồng cỏ trong lũng hai bên đường. Chỗ ấy là Tả Phình phải
không bác? - Nhà họa sĩ hỏi.
- Vâng.
Bác không thích dừng lại Sa Pa ạ?
- Thích
chứ, thích lắm. Thế nào tôi cũng về ở hẳn đấy. Tôi đã định thế.
Nhưng bây giờ chưa phải lúc.”
“Những nét hớn hở trên mặt người lái xe
chợt duỗi ra rồi bẵng đi một lúc, bác không nói gì nữa. Còn nhà họa sĩ và cô
gái cũng nín bật, vì cảnh trước mặt bỗng hiện lên đẹp một cách kì lạ. Nắng bây
giờ bắt đầu lèn tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung
tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử
kính thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị
nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống
đường cái, luồn cả vào gầm xe.”
Bức tranh thiên nhiên ở
đoạn cuối, khi mọi người chia tay để tiếp tục cuộc hành trình của mình cũng
thật đẹp: “Hai ông con theo bậc cấp bước xuống đồi, đến mặt đường nhìn
lên, không thấy người con trai đứng đấy nữa. Anh ta đã vào nhà trong. Ông xách
cái làn trứng, cô ôm bó hoa to. Lúc bấy giờ, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt
cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó hoa càng thêm
rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo. Hai người lững thững đi về
phía chiếc xe đỗ, im lặng rất lâu.”
Vẻ đẹp trữ tình trong truyện còn được thể hiện qua những con người sống
và làm việc trong cái lặng lẽ mà không hề cô độc. Tác giả đã tạo ra cái không
khí trữ tình cho tác phẩm không chỉ ở nội dung truyện mà còn ở vẻ đẹp của những
con người, tâm hồn, tình cảm nảy nở từ cuộc gặp gỡ giữa mọi người: “Cô
gái nhếch mép cười, có vẻ rất bằng lòng về việc ông được chuyển lên ngồi cạnh
cô. Sau một đêm và một ngày đi tàu từ Hà Nội, cùng ngồi trong một ngăn toa cứ
chật dần lên, đến nơi lại không có cách nào khác đành gộp hành lý luồn vào một
chiếc đòn gánh cùng khênh đến khách sạn cách thị xã bốn cây, sau một đoạn đường
như vậy, người ta coi nhau như là bà con. Nhà họa sĩ có cái cảm giác lẫn lộn
thường có ở tuổi già, nhanh chóng coi cô gái là con… Ông dễ dàng cởi mở với cô
gái những lời tự tin mà, đã già, ông vẫn giữ một cách khiêm tốn vô lí, không
bao giờ dám thổ lộ với bạn bè. Còn cô gái là kĩ sư vừa đỗ, đi nhận việc ở Ti
Nông nghiệp Lai Châu. Lần đầu ra khỏi Hà Nội, qua cuộc đời học trò chật hẹp,
bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái gì cũng làm cho cô háo hức. Cô cứ
nhìn ra ngoài cửa xe, mắt lặng lẽ mà say mê. Cô là thanh niên trẻ ra trường có
thể đi bất kì đâu, làm bất kì gì, nhận bất kì lương hướng, tiếp đón thế nào, cô
thấy lòng cô cũng nhẹ nhàng. Sự thật thì cô cũng có lần yêu, nhưng rồi xóa ngay
vì biết mình lầm.
Hai
ngày sống gần với nhau, với sự nhạy cảm riêng của người nghệ sĩ, nhà hội họa
già biết điều đó. Ông nói như nói một điều hiển nhiên và không quan
trọng: - Đối với một người khao khát trời rộng, sự dứt bỏ một tình yêu
nhiều khi lại nhẹ lòng. Người con gái xúc động vì đột nhiên nghe một người đã
già diễn tả bằng lời cảm nghĩ vốn mơ hồ và lả tả của mình. Từ phút đó trở đi,
hai người gần nhau thêm một mức nữa.
- Hay
đấy. Tôi cũng đi Lai Châu. Tôi sẽ đưa cô đến ti, giao cô tận tay ông trưởng ti,
nhờ ông ta hết sức giúp cô, xem qua chỗ ăn, chỗ nằm của cô như một ông bố thật
sự, rồi tôi quay về. Cô không lo đâu.
Như vậy
đấy, bắt đầu sự thân thiết giữa cô gái và ông già vui tính.”
Với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn
Thành Long đã góp một tiếng nói ca ngợi cuộc sống và tái hiện một cách đầy đủ
những vẻ đẹp của con người nhiệt thành và hăng say trong công cuộc xây dựng đất
nước .Anh thanh niên là nhân vật chính, bên anh là các nhân vật phụ, tất cả đều
là những con người đẹp và đáng yêu, cái thế giới nhân vật ấy làm toát lên chủ
đề của tác phẩm: “Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của
Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những
con người làm việc và lo nghĩ cho đất nước.”
-------------------------------
* Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
(Trong chương trình Ngữ
Văn 9)
Mộc Nhân - Lê Đức Thịnh