Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

290/ TRÁI TIM MÙA THU


Vũ Thanh Hoa

Trái tim em, khiêm nhường bé nhỏ
Đủ giấu anh vào thăm thẳm giấc mơ
Trái tim em nồng nàn tia lửa
Đủ sưởi anh khi lạnh giá ùa về 



Trên trời sáng, muôn ngàn sao sáng
Ngôi sao anh rơi trong tim em
Vũ trụ lớn, trái tim bé nhỏ
Riêng của anh khoảng lặng yên lành

Giữa hối hả, anh bước đi thong thả
Phía trời xa, anh gửi trái tim mình
Em lặng lẽ cùng tình yêu lặng lẽ
Thu  mùa nhuộm óng cúc vàng hoa...

289/ CHÙM THƠ LỤC BÁT

NHỚ

Hạnh Vân 

Dòng thương
dòng giận
lênh đênh
sông không lặng
sóng
bấp bênh
nghiêng tràn
cầu dải yếm chẳng bắc sang
nên dòng nhớ cứ đổ tràn bờ nhau




 KHÚC RU NGÀN NĂM

Hà Thị Trực 


Trời xanh càng rộn ánh ngày

Chìa tay trời rót nắng đầy tay em
Mới hay trăng sẽ tỏ đêm
Bầu trời như sẽ cao thêm mấy tầng

Gửi vào khoảng rộng bâng khuâng

Những mong thắm mãi tấc lòng bấy nay
Dòng sông lấp loáng trăng gầy
Nhớ chăng anh hỡi, nơi đây một thời?

Mượn trăng em gửi nụ cười

Mượn gió nói hộ những lời tri âm
Lặng thầm như mạch nước ngầm
Tình anh ru suốt tháng năm không lời.



Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

288/ TẤM LÒNG ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI

Lê Nguyễn Anh Thư

Xã hội tấp nập, xô bồ. Ngày càng nhiều người sống bon chen, giành giật vì những mưu sinh, những tham vọng tầm thường. Có bao giờ họ nhìn lại, tự nhủ sao quá thờ ơ với cuộc sống, với con người? Phải chăng con người chỉ sống cần lí trí mà không cần trái tim? Không. Con người sinh ra là để yêu và được yêu. Cuộc sống thiếu tình thương như  trái đất thiếu ánh mặt trời. Triết lí bình dị sâu sắc ấy đã được cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi gắm qua lời hát: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng: để gió cuốn đi”.


Vậy tấm lòng là gì? Phải chăng là sự cảm thông, yêu thương, chia sẻ những khó khăn với bao mảnh đời bất hạnh. Là bao dung, vị tha, là những cử chỉ cao đẹp được trao đi không mong chờ đền đáp. Và có thể nói rằng tấm lòng – là những tình cảm, hành động rất người của người.
Lời hát như lời nhắn nhủ mỗi người chúng ta hãy yêu thương nhiều hơn và san sẻ nhiều hơn. Đừng bó buộc tình thương trong phạm vi hẹp mà là “để gió cuốn đi”, và “tấm lòng” sẽ được trải rộng đến muôn nơi.
Cuộc sống là quá trình trao và nhận không ngừng. Nhà văn Victo Huy-gô từng có câu “Trí tuệ giàu lên nhờ cái nhận được và trái tim giàu lên nhờ cái nó cho đi”. Và có lẽ lời bài hát của TCS cũng không ngoài bức thông điệp đó. Bởi “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu)
Đời người như dòng sông, lúc êm đềm lúc quanh co ghềnh thác. Mấy ai dám khẳng định mình sẽ mãi bình yên, hạnh phúc. Và khi gặp tai ương, bất hạnh, chúng ta ai mà không cần yên thương, chia sẻ để vơi đi những giọt nước mắt khổ đau, thắp lên nụ cười tươi thắm. 
Trên mảnh đất miền Trung khô cằn, lắm thiên tai, rất nhiều những gia đình nghèo, những trẻ em khuyết tật, mồ côi, những nạn nhân của chiến tranh, bão lũ thiên tai đã và đang được các tổ chức, cá nhân, các chương trình từ thiện dang rộng vòng tay yêu thương. Giữa cuộc sống xô bồ lắm bon chen, những tấm gương như Nguyễn Hữu Ân đã làm ấm lòng biết bao người! Và tất cả đã đi qua màu xanh trở lại bởi tình người ấm áp khắp muôn nơi!


Yêu thương thôi chưa đủ! “Tấm lòng” còn là sự bao dung. Người xưa có câu “Nhân vô thập toàn”, ai mà không vấp ngã trong đời. Bao dung, vị tha để lòng mình thanh thản, để người với  người không có căm ghét thù hận.  Cuộc đời sẽ nở hoa trên những sa mạc khô cằn từ mạch nguồn bao dung ấy.

Vâng. Cho đi là nhận lại ! Ta hạnh phúc vì thấy người hạnh phúc. Cuộc sống sẽ đẹp hơn qua lăng kính yêu thương và con người xích lại gần nhau hơn. Sẽ ra sao nếu thế giới chẳng có yêu thương, người sống với người bởi những toan tính, mưu mô, lướt qua nhau như những kẻ vô hình. Mọi thứ trở nên lạc lõng, lạnh giá và u tối. Con người chỉ như những con rô-bốt được lập trình, chết dần chết mòn. Chỉ nghĩ đến thôi đã đủ sợ rồi!

Vẫn còn nhiều lắm những kẻ chỉ có “tấm lòng ảo”. Họ hoặc dửng dưng, hoặc vô cảm hoặc lợi dụng từ thiện để thổi phồng tên tuổi – một kiểu đạo đức giả.  Lời hát của Trịnh Công Sơn có  cảm hóa được họ chăng  ? “Nhân chi sơ tính bổn thiện” cơ mà ?   Có thể cuộc sống mưu sinh và cả những  toan tính tham vọng  biến họ thành những kẻ vô tâm ?   Dẫu sao họ cũng đáng bị lên án và ta cũng cần  cảnh giác chính ta để  không bị như họ thành kẻ vô tình vô cảm trong một  lúc nào đó   .
Còn tôi, tôi đã nhìn lại mình, dù sao đã có một việc làm ý nghĩa : Tết Nhâm Thìn cùng TTQN thăm những gia đình neo đơn ở vùng quê Phú Ninh bằng những vật phẩm đơn sơ không nhiều nhặn về vật chất. Nhưng tôi cảm nhận được niềm vui từ những ánh mắt sáng lên nụ cười. Chừng ấy hẳn vẫn còn quá ít ỏi, cần nhiều hơn nữa những chuyến đi như thế trong cuộc đời tôi.
Tấm lòng có phải đong đếm bằng bạc vàng hay là bằng những gì chúng ta cho đi ? Không cần làm những gì lớn lao, đôi khi chỉ cần một lời an ủi, một cái nắm tay, chia nhau nắm cơm lúc đói lòng,… Tấm lòng là con đường từ trái tim đến trái tim.
Giàu có, địa vị, danh vọng chỉ là những thứ xa xỉ còn yêu thương gần gũi lại rất giản đơn và bình dị miễn là ta dám cho đi. Cuộc sống sẽ luôn đáp trả cho ta những gì ta dành cho nó. Có những thứ không thể nhưng yêu thương mãi là có thể.
Lời bài hát của cố nhạc sĩ nghe thật đơn sơ mà chứa đựng nền tảng cho mọi triết lí về cuộc sống. Hãy san sẻ tấm lòng để càng làm cho cuộc sống ngày một đẹp hơn . Và cũng biết trân trọng, nâng niu những tấm lòng thơm thảo ấy. Còn những gì mình cho đi không có gì lớn lao mà nó chỉ là những gì nhỏ nhoi, nhẹ nhàng nhất chỉ  “để gió cuốn đi”.  


Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

287/ CỎ

                                
·             

Huệ Triệu


Cỏ xanh tràn cả giấc mơ
Ru cho nhau biếc giữa bờ tơ non
Đêm nghiêng nghiêng quá, trăng mòn
Cỏ còn xanh lúc không còn em không ?



Mai sau ôm cỏ ngập lòng
Thơ như mây trắng mênh mông đất trời
Giờ xin một khoảng nhỏ thôi
Em bình yên tựa vai ngồi bên anh…
                                    

Huệ Triệu

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

286/ ĐÁNH GIÁ BÀI VĂN CỦA HỌC SINH GIỎI

Lê Đức Thịnh
Bài đăng trên báo Giáo dục thời đại số ra ngày 19 tháng 10 năm 2013

(GD&TĐ) - Cái đúng và cái đẹp là hai mặt của văn chương. Yêu cầu đối với việc đánh giá học sinh khi viết một bài văn hay bài làm môn Toán, Lí, Hoá, Ngoại ngữ... là đúng - sai. Nhưng bài làm văn - nhất là bài của học sinh giỏi - còn được định giá bằng một tiêu chí vô cùng quan trọng và mang tính quyết định, đó là hay - dở.

Đạt tiêu chuẩn


Một bài văn học sinh giỏi được đánh giá là tốt phải đảm bảo hai tiêu chuẩn: vừa đúng vừa hay. Hai thành phần đó có quan hệ tác động qua lại với nhau một cách mật thiết và chặt chẽ. Trong mỗi bài văn, cái đúng là cơ sở cho cái hay tồn tại, phát triển; Cái hay làm tăng giá trị của cái đúng. Không đúng thì không thể hay, ngược lại không hay thì đúng cũng chẳng có được giá trị cần thiết.
Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi rèn luyện khả năng viết, so với yêu cầu để đạt tới giá trị đúng thì yêu cầu đạt tới mức độ hay ở mỗi bài viết khó khăn hơn nhiều. Để viết đúng, học sinh có thể sử dụng những hiểu biết về văn học và cuộc sống để trình bày theo một yêu cầu nào đó. Không sáng tạo trong tiếp nhận vận dụng thì không thể có được bài văn hay, tạo ra cái riêng của mình trong bài viết.
Vậy nên một bài văn của học sinh giỏi văn ngoài yêu cầu viết đúng còn phải là một bài văn hay, tức là học sinh phải biết cảm thụ, tiếp nhận và diễn đạt một cách tinh tế, sâu sắc, biết rung động thực sự trước mỗi áng văn và có khả năng sáng tạo trong khi viết. Nói cách khác, bài văn học sinh giỏi được viết ra trong mối quan hệ giữa tri thức và tình cảm; giữa trí tuệ và cảm xúc; giữa nhận thức lí tính và cảm thụ cảm tính; giữa khoa học và thẩm mỹ...

Phải biết đọc và cảm Văn
Để có cảm xúc chân thành và sâu sắc trong bài viết, người viết phải thực sự hiểu văn và phải đặt mình vào trong thế giới nghệ thuật. Muốn vậy, học sinh cần được nhen nhóm và nuôi dưỡng cảm xúc văn chương, cảm xúc thẩm mỹ cần thiết cho mình trong quá trình viết văn. Yêu cầu trước tiên, hết sức quan trọng, là người viết phải biết đọc văn.
Việc đọc và cách đọc cho học sinh lâu nay có vẻ không được quan tâm đúng mức nên có lúc, có chỗ còn bị xem nhẹ. Bài làm văn là kết quả của việc đọc, cảm thụ và tiếp nhận, vừa là kết quả học tập của học sinh từ những nguồn tri thức đến từ giáo viên, sách vở, tài liệu...
Khi đọc cũng như khi nghe lời giảng, lời bình, học sinh không chỉ có ý thức nghe ngóng bài nói, viết ấy có nội dung phản ánh gì mà phải còn nắm bắt được những cảm nhận tinh tế nhất, những xúc cảm sôi nổi nhất, những tình cảm dâng trào, trong nguồn mạch cảm xúc của lời giảng, lời bình. Những cảm xúc, những tình cảm ấy góp phần nuôi dưỡng cảm xúc khi học sinh viết một bài văn, biết biến cảm xúc mà bài giảng, lời bình của thầy cô giáo hoặc nhà phê bình thành cảm xúc của chính mình.
Sự thỏa mãn về trí tuệ và sự nâng đỡ cảm xúc, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm trong khi nghe giảng và đọc tài liệu tham khảo có tác dụng to lớn trong việc tạo hứng thú viết văn, lại góp phần giúp cảm thụ sâu sắc và tạo ra những rung động thẩm mỹ cần thiết khi viết văn. Cảm xúc thẩm mỹ là một trong những nguồn mạch quan trọng của hoạt động khám phá, luận bàn về tác phẩm văn chương; Cảm xúc có lúc điều khiển cách sử dụng ngôn từ, việc lựa chọn biện pháp tu từ và văn tạo ra chất men say cho bài viết; Cảm xúc góp phần làm cho nội dung vấn đề được nổi bật và sâu sắc hơn.
Trong khi tiếp cận tác phẩm và lĩnh hội các giá trị của nó, cần nhận thấy được cái hay, vẻ đẹp của tác phẩm văn chương ở thi nhãn, thần cú... Nơi đó, tập trung bộc lộ mạch tư tưởng, tập trung thể hiện ý tưởng của tác giả, là chỗ mà cảm xúc của người viết được tuôn trào một cách tự nhiên, chân thành. Nếu không phát hiện được điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm, thì chúng ta không thể có những rung động thật sự sâu sắc và cụ thể về tác phẩm.
Đừng quên và đừng bỏ qua những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, từ đó tránh được tình trạng viết lan man mà không có điểm nhấn để làm nổi bật nội dung cần thiết và cũng không bị thiếu đi những lúc, những chỗ để thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt tình của ngòi bút. Biết lướt qua những gì không đáng dừng chân và biết “cày sâu cuốc bẫm” ở những chi tiết, những hình ảnh, những hình tượng tạo nên vẻ đẹp, cái hay và sức nặng của tác phẩm thì lao động làm văn mới có thành quả tốt đẹp...
Cần sự sáng tạo
Bài viết của học sinh tuy là sản phẩm của việc tập làm văn, của việc học văn trong nhà trường phổ thông nhưng nó là kết quả của quá trình lao tâm khổ tứ nhưng cũng đầy hứng thú và sáng tạo. Sáng tạo trong làm văn của học sinh có nhiều mức độ.
Mức độ thấp nhất, có tính “phổ thông” cần đạt được là tiếp nhận và tận dụng linh hoạt mà những điều đã học từ việc học ở lớp, từ tài liệu sách vở... thành bài viết của mình mà không phải là sao chép nguyên văn và máy móc từ các nguồn tri thức ấy. Học hỏi và tham khảo tri thức từ thầy cô và sách vở vừa nhằm tăng cường, tích lũy tri thức, kinh nghiệm vừa để bồi bổ tâm hồn tỉnh cảm cho bản thân. Mặt khác, thông qua việc học hỏi và tham khảo này học sinh có thể tạo ra cảm xúc thẩm mỹ.
Hứng thú và cảm xúc sẽ đưa tới những nội dung mới trong bài viết. Nội dung mới ở đây không đòi hỏi là những phát hiện, những ý tưởng thực sự mới mẻ so với những gì mà nhà trường đã dạy, tài liệu đã viết mà chính là cách diễn đạt kết quả cảm thụ và hiểu viết, cách vận dụng có sáng tạo những tri thúc văn học trong bài giảng, bài viết của người khác thành bài văn của chính mình, chứ không phải là sao chép lại vào bài của người khác một cách máy móc.
Tuy nhiên bài làm văn của học sinh rất cần đến sự phát hiện, những ý tưởng mới mẻ, đây là mức độ cao nhất của sáng tạo trong hoạt động cảm thụ và làm văn của học sinh phổ thông. Có như vậy mới thực sự có được những bài văn hay, những bài văn tốt và nhà trường mới có được những học sinh giỏi văn đích thực.
Màu sắc riêng của từng người viết được tạo ra không chỉ ở giọng điệu, cách viết mà còn có được từ những ý tưởng, những giá trị mới mẻ.
Vậy nên, chúng ta đừng ngần ngại khi bắt gặp học sinh đưa ra những cách hiểu, cách đánh giá mới, khác lạ (đương nhiên là phải có lí) với những điều đã quen của chính mình bởi tác phẩm văn chương lấy một để nói nhiều, lấy cụ thể để phản ánh khái quát, lấy cái hữu hạn để phản ánh cái vô hạn. Nó luôn ở trong thế động, luôn có xu hướng mở... Bài văn là nơi để học sinh thể hiện bản lĩnh của mình và làm văn là công việc đầy sáng tạo nên không thể gò mình vào sự lệ thuộc của ý kiến, nhận xét đánh giá của người khác.

Bài làm văn của học sinh rất cần đến sự phát hiện, những ý tưởng mới mẻ, đây là mức độ cao nhất của sáng tạo trong hoạt động cảm thụ và làm văn của học sinh phổ thông. Có như vậy mới thực sự có được những bài văn hay, những bài văn tốt và nhà trường mới có được những học sinh giỏi văn đích thực.

 Lê Đức Thịnh 

286/ HÌNH ẢNH VÀ NÔI DUNG SINH HOẠT NHÂN NGÀY 20-10 TRƯỜNG THCS NGUYỄN HIỀN



      Nguyễn Thị Bích Trâm
            
 TRÂM : kính thưa …
 Chương trình SINH HOẠT CÂU LẠC BỘ   20-10 trường THCS Nguyễn Hiền  với chủ đề : VUI NHƯ 20-10  xin được bắt đầu
 Chương trình gồm các nội dung sau
1/ Thi Văn nghệ : Hát liên khúc theo chủ đề
2/ TRÒ CHƠI: Việt Nam next top model
3/ TRÒ CHƠI:Nghe thơ  đoán dáng kiều
4/TRÒ CHƠI:Bức họa yêu em
 YÊU CẦU CHUNG : TỰ TIN,THÔNG MINH ,HÀI HƯỚC ,ĐÁNG YÊU 
YẾN : Các đội như sau
Đội A: TNCLC + Toán lí,hđng Nguyễn Hiền
Đội B: XH CLC  + VĂN CÔNG DÂN , BGH Nguyễn Hiền
ĐỘI C: Hóa sinh,Âm nhạc ,Sử địa  ,Văn phòng


Trâm : Xin kính giới thiệu : Thành phần ban giám khảo gồm
1/ Cô Huỳnh Thị Hường
2/ Cô Lê Thị Thu Ba
3/ Cô Nguyễn Thị Thanh Tuyền
4/ Thầy  Nguyễn văn Hồ (thư kí tổng hợp)
Yến :
Luật chơi: ở phần thi văn nghệ mỗi đội chọn 3 ca sĩ xuất sắc nhất  : tham gia hát liên khúc bài hát Việt thời gian 5 phút  nhất có 6 bài trong liên khúc
Đủ 6 bài (mỗi bài đều có từ chủ đề) :60 điểm
Hát hay diễn xuất tốt  : 40 điểm
Mời các đội  lên bốc xăm thứ tự hát
TRÂM :
Mời  đội A lên bốc xăm từ chủ đề và hát
YẾN :Mời  đội B lên bốc xăm từ chủ đề và hát 
TRÂM:  Mời  đội C lên bốc xăm từ chủ đề và hát 
CHỦ ĐỀ :MẸ, EM, ANH (hát có từ chủ đề ) 












































285/THĂM LẠI DÒNG SÔNG XƯA


Huỳnh Thị Kim Tâm


Tôi về thăm lại bến sông xưa
Chiều tím nhạt màu buồn tê tái
Chợt hiện về tuổi thơ ngây dại
Hình ảnh con đò chở nắng mưa
- -
Nhớ dòng sông có tiếng thoi đưa
Nhịp cầu nhỏ chở bao mơ ước
Lũy tre nghiêng mình bóng tha thướt
Ong bướm thêu vòng hút mật hoa

285/ TỪ BÓNG MÌNH NHÌN RA

   Tiêu Đình
                                
                                                                                 Truyện ngắn

Tôi bay, bằng một kiểu bay rất lạ, như người bơi sấp bỗng chuyển sang bơi ngửa, bơi nghiêng, bơi đứng, lặn hụp, chao đảo, cuộn xoay, rướn cao, rơi nhẹ….
 Nhẹ tưng như vừa rủ bỏ được tất cả âu lo trần thế.
Tôi không còn nhớ hàng lô những con số di động phải nhớ, phải lưu, lịch công tác hằng tuần dày đặc những cuộc họp như nỗi ám ảnh khiếp hãi về một cái gì đó vô hình mà vô cớ đeo bám mãi cuộc đời. Tôi như con mối cánh nhỏ xíu trốn chui nhủi trong hang tối, gặp cơn mưa rào đã đời bay túa ra dọc ngang đầy sân, hả hê tắm mưa. Mặc cho sau đó chúng ướt cánh chui nhập xuống đất bùn nhão nhoét để làm mồi cho lũ cóc đói. Cảm giác thích thật! Ít ra cũng giúp tôi bớt thấy nhàm chán về cái trơn tru, mực thước và bình ổn đến tẻ nhạt.
Hình như là nó, chính nó - cái thằng Bồng dạy cùng trường. Vẫn nụ cười không biết thật hay đùa. Nó lẩn vào đám mây xanh rồi ôm chiếc cặp da cũ mòn dính đầy bụi phấn đĩnh đạc bước ra khỏi lớp học. Vẻ đạo mạo vụt mất, thoáng thay vào đó một chút nham hiểm, cao ngạo. Bằng phần người dính hai chân hơi lệch nhau do tác hại của chất độc da cam đi-ô-xin, nó dạo trên hành lang quen thuộc có lá vàng bay lăn tăn. Phần người còn lại của nó, mọc dài ngoẵng cánh tay kéo phét-mơ-tua, thắt cà-vạt, đánh bài tiến lên… nó bay theo tôi. Chắc là chúng tôi đang chơi trốn tìm. Nhưng nó tìm tôi hay tôi tìm nó thì chả biết. Vẳng nghe câu thơ của ai đó: “Suốt đời kiếm, suốt đời rơi, để tìm”. Có lúc chúng tôi nhập vào đường bay của nhau, rồi tách làm đôi với một nửa tôi và một nửa nó. Cũng có lúc bay riêng mỗi đứa một phương, tôi chẳng nhận ra nó và nó cũng chẳng nhận ra tôi. Chúng tôi bay cao khỏi mặt đất mù bụi, nhão bùn, bay thật xa bảng tên trường có gãy một nét chữ N đã hơn một năm nay, bay thật xa những phòng học có kích cỡ giống nhau như đúc, câu khẩu hiệu bằng đầu bằng đuôi và cùng một màu chữ trắng trên nền xanh. Đến khi nghe câu nói quen thuộc của đứa học trò cá biệt: “Thầy là thầy giáo chứ đâu phải thầy chùa” tôi bỗng giật mình, sững người như một chiếc xe bị thắng gấp. Tôi thấy bóng mình in rất rõ trên nền nắng chiều loãng gió với đầu tóc cắt ngắn ngô ngố như cái thằng bị “chập mạch”, áo trắng dài tay cài nút và nai nịt cẩn trọng, đôi san-đanh mòn vẹt, lõm in dấu vết những ngón chân của loài vượn cao cấp.
Xung quanh tôi đầy tăm tắp học trò, đứa nheo nhút, đứa quý tộc, đứa phệu má, đứa gió bay…. Tôi cảm thấy mình ngứa ngáy khắp thân thể, rồi từ mỗi lỗ chân lông mọc ra tua tủa những chiếc lông nhọn và cứng, như lông nhím, xù ra rùng rợn. Tôi trườn người tới định tát cho thằng học trò cá biệt một cái tát tai hết cỡ mạnh, nhưng tôi đã bị mất đà ngã chúi vào không trung, đầu chẳng đụng trời, chân chẳng chạm đất. Nói đúng ra là một chân đạp đất, một chân lơi khơi mây gió. Hắn biến đâu mất tiêu, thả rớt lại câu nói cùng với nụ cười vô thưởng vô phạt: “Mà thầy chùa bây giờ cũng xe máy, di động như ai…”     
Tôi mở mắt. Đầu nặng trịch, cổ khô đắng. Ánh sáng chụp xuống từ chiếc đèn nê-ông viền tua sắt mạ vàng làm chói mắt khó chịu. Tôi cầm chai nước lọc để sẵn trên bàn nốc một hơi đã đời thằng khát. Mát lạnh chạy vào tim gan phèo phổi, lên óc. Và tôi kịp nhận ra áo quần mình xộc xệch quá, không xứng với chiếc giường nệm trắng sạch phẳng phiu, thơm phức mùi nước hoa gợi cảm. Soi mình vào mảng gương lớn gắn trên tường tôi chợt nhớ hình như trong say-tỉnh-tỉnh-say tôi đã nhận ra mình có bộ râu rất giống với thằng Bồng. Bộ râu con đực lóng lánh sợi bạc vẫn phải kỳ công rà cạo hằng ngày, bộ râu chưa bao giờ chịu yên phận râu, dù đó là lúc đọc thơ trên bục giảng hay ăn thịt chó uống rượu gạo ngoài vỉa hè. Rồi đêm đêm, râu của tôi và nó vẫn thức để cố chui ra khỏi lớp vỏ bọc bằng da. Chỉ một sáng lơ đễnh quên cạo râu như con rắn quên lột vỏ sống đời là tôi và nó có thể sẽ trở thành hiện tượng lạ của trường lớp và của cái xóm trung du chỉ cần mở nút rượu gạo ở cực đông thì sau ba mươi giây ở cực tây mọi người đều say khướt. Có phải vì sự tương đồng ấy mà tôi thích cảm giác trốn tìm với nó trong mơ? Và sợ hãi khi đối diện với nó trong phòng họp hội đồng sư phạm? Nhất là ở những nơi ăn chơi quên đời như tại khách sạn năm sao này?
Thằng An, đứa học trò cá biệt của tôi, đã bỏ đi tự lúc nào. Có lẽ tôi nên gọi hắn trở lại để nói dứt khoát rằng tôi phải rời khỏi nơi đây, càng sớm càng tốt. Rõ ràng là tạng người của tôi không phù hợp với những nơi như thế này. Lúc nãy tôi chỉ thích chơi trò ú tim với thằng Bồng chút thôi. Cho vui. Còn bây giờ là lúc tôi đang tự ru mình bằng ba mươi năm dạy học với mười năm là giáo viên giỏi cấp tỉnh có gần hai chục sáng kiến kinh nghiệm được đẻ ra như gà đẻ trứng. Với tay định cầm cái di động, tôi bỗng nghe bên ngoài hành lang có tiếng dép lẹt xẹt. Tiếng dép vừa thoáng vẻ cam chịu của người mẹ thống khổ, vừa dè dặt so tính như bước chân nhẹ nhàng, đứt quãng của cô gái trẻ ngày đầu về nhà chồng. Chị tôi, cái thời hay dậy sớm nấu cơm đùm bằng mo cau cho cha lên rừng đốn củi, cũng sở hữu những bước chân tương tự như thế. Tiếng chân dừng lại sát cửa phòng, e dè. Trong sự yên lặng đột ngột, tôi thấy khuôn mặt thằng An cười rạng rỡ: “Em biết hồi xưa thầy không ưa gì em và em cũng chẳng ưa gì thầy. Chỉ vì em học dốt, lại nghịch mà thầy thì bao giờ cũng nghiêm khắc và mẫu mực quá chừng. Nhưng bây giờ lớn rồi, chuyện cũ đã qua, nghĩ lại em thấy thương thầy, thương thật sự. Không dễ gì có dịp gặp thầy ở đây, xin phép cho em được chiêu đãi thầy một trận cho ra trò…”.
Đèn phòng vụt tắt. Mùi phụ nữ tràn vào và cửa phòng khép tách một tiếng trong veo. Chưa kịp nghĩ ra phải thể hiện vai trò làm thầy, làm người của mình trong giây phút ấy như thế nào thì cái mùi vừa quen vừa lạ ấy trùm lên tôi. Đôi bàn tay mềm mại câm điếc lần cởi những hạt nút áo đang còn nồng mùi bia. Hơi thở trẻ trung khiến tôi bừng tỉnh, rạo rực như đang say đắm một phần bài giảng ngoài giáo án. Cả đời mình, đây là lần đầu tiên tôi nhận được sự chăm sóc bản năng một cách kỳ khôi như thế, sự chăm sóc của người khác giới mà mình không nhìn rõ mặt, trong im lặng rờn rợn của thứ bóng tối đồng lõa. Thú thật, tôi không quen với kiểu ve vuốt không cần lời, với cách âu yếm không cần biết khuôn mặt của nhau đen trắng thế nào.
- Bỏ tay ra, lại bật đèn lên. Ai cho cô tắt đèn!
Tôi hét lên bằng cái giọng của một thầy giáo khó tính đối với đứa học trò bướng nghịch. Đôi bàn tay giật mình, chững lại. Rạo rực nằm im xo ở một góc tối, rồi tan dần.  Hình như cảm giác đang nói thầm với cảm giác điều gì đó mãi bí ẩn. Như chỉ thấy bóng mà không thấy hình, thoảng nghe gió mà không thấy gió, nhìn biển mà vẫn không phát hiện ra dòng hải lưu dữ dội ẩn sâu dưới đáy. Bàn tay cụt hứng nằm im, rồi hình như run nhẹ và cuối cùng là hẫng hụt bỏ thỏng thờ xuống thành nệm. Không nghe tiếng thở dài hay tiếng cười tiếng khóc nào cả. Buổi trưa khô cong rồi bị xé vụn như con mực nướng sáng nay. Mùi đàn bà sệt đặc, chua lét. Im lặng rờn rợn nằm chống chọi giữa cột chặt và thả lỏng, âm mưu và trống rỗng.
Tôi lại trông thấy hắn, cái thằng An học trò cá biệt, đang bật nắp bia cụng mời và rút di động a-lô búa xua. Một tay hắn thọc sâu vào túi quần, tay kia điệu nghệ cầm ly, hơi nghiêng người, đá cốp vào ly người khác: “Xin mời, một trăm phần trăm, dô!”. Rõ là hắn đã trưởng thành hơn mức suy nghĩ của tôi, từ kiểu cách cầm ly, uống bia, đi đứng, nói năng cho đến… cười. Có phải con người ta khi thành đạt thường chọn cho mình một kiểu cười riêng, to và hãnh tiến hơn? Chả bù với hồi xưa, chỉ trừ mỗi sự nghịch ngợm tinh quái thì cái gì ở hắn cũng lù đù thấy mẹ. Rồi cũng chính hắn, bằng cái giọng đã ướt nhèm bia rượu, vừa tự mãn nói, vừa ấn vai thầy lọt vào bên trong cánh cửa phòng có mùi nước hoa gợi dục trước khi bước xuống cầu thang khách sạn: “Thầy yên trí, an ninh vùng này đã có em lo…”.
 - Không, chả ai lo được cho ai bằng chính mình lo cho mình - Tôi chưa kịp nói thì hắn đã biến mất.
- Bật đèn lên! Tôi đã nói bật đèn lên kia mà. - Giọng của tôi dứt khoát, tỉnh và dịu hơn.


Thay vì im lặng trùm lên im lặng, tôi nghe có tiếng khóc lớn dần. Tiếng khóc sao mà giống hệt tiếng khóc của mẹ tôi, chị tôi những năm tháng bao cấp phải mót lúa, ăn củ mà vẫn không đủ tiền nuôi tôi học tiếp. Rồi những bước chân vụt chạy ra khỏi phòng, không e dè như trước đó. Cánh cửa phòng chợt loáng sáng rồi lập tức bị đóng ầm, tối đen. Dường như có nỗi đau nào đó vừa được thắt thành dây dài, kéo lê theo những bước chân phụ nữ, từ chỗ chiếc giường có tấm phủ nệm trắng toát len qua cửa, ra hành lang sâu, xuống cầu thang và mất hút. Tiếng khóc cũng mất. Còn lại sau khi đã mất tất cả là tôi, đang cố nhớ  mình ở đâu, say hay tỉnh, còn sống hay đã chết? Thằng An đã đưa mình vào đây hay là ý thức tự chọn? Nhìn từ bóng  thì hắn là đứa học trò cá biệt hay là nhà doanh nghiệp thành đạt? Nhìn từ hình thì đời hắn và đời tôi có khác nhau không?
Tôi bấm số thằng An lần thứ hai vẫn nghe máy bận. Thôi đúng rồi, cái thứ cá biệt muôn đời vẫn cá biệt. Hắn đã lừa tôi? Tôi định bụng sẽ vơ vội tấm áo vét vứt bừa trên sa-lông, tông cửa thoát nhanh ra khỏi cơn mê muội vừa lỡ dại chui vào thì bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Ông chủ khách sạn năm sao bụng phệ, mặt tròn, lùn tịt, mặc áo lụa nền xanh hoa đỏ cúi chào lễ phép: “Xin lỗi ngài, em út còn nai tơ quá nên e ngại, xin ngài chờ cho giây lát rồi em sẽ lên hầu ngài!”. Gì nữa đây? Lại một cuộc chơi trốn tìm trong mơ với thằng Bồng? Giữa lúc đang lớ ngớ như bị mất giáo án, tôi thấy số máy của  thằng An sáng lên. Mừng quá! “A lô, thầy hả? Ông chủ vừa cho em biết sự cố. Thầy cứ bình tỉnh án binh bất động ở đó đi nhé, em sẽ đến ngay…”
Không còn cách nào khác là phải chờ hắn đến. Cơn say vừa tan thật nhanh, nhanh đến độ tôi đủ bình tỉnh để tự vệ bằng cách chỉ hé cửa phòng quan sát động tĩnh bên ngoài mà không dại gì ngang nhiên bước ra ngoài thứ ánh sáng lắm điều trong tư thế của một đấng mày râu dại dột. Trong cơn say tôi vẫn biết sợ ai đó sẽ trông thấy mình, trông thấy một nhà giáo mẫu mực đã gò khép mình để sống hơn ba mươi năm như một nhà sư. Có tiếng khóc nửa trẻ con nửa người lớn từ dưới lầu một vọng lên. Hình như tiếng khóc đang bị kéo lê, nó chơi vơi, gãy khúc, nhão nhũn, ướt nhòe…Hai người, một đàn ông mặc đồ bảo vệ và một phụ nữ son phấn, mập phệ, đang kéo hai tay một em bé độ mười chín đôi mươi lên từng bậc cầu thang. Mái tóc cháu hoe vàng xòe phủ cả vùng lưng nửa kín nửa hở. Tiếng khóc như tiếng thét, hai gót chân trần nứt nẻ màu bùn khoèo vào tam cấp trì lại khiến cho cặp đùi non lồ lộ bị kéo căng thêm, một mảng bụng hở trắng. Đến khi mặt cháu xoay về phía tôi thì mấy hạt nút áo bị đứt xạch, cả vùng ngực cháu gần như mở toang. Khuôn mặt quen quen, cái nốt ruồi như giọt máu đen khô đọng dưới mắt trái.
Tôi đóng sầm cửa. Ông Định đang đứng đối diện với tôi từ lúc nào trong phòng kín. “Chào thầy giáo”, vẫn giọng đàn ông nhỏ nhẻ như phụ nữ và nụ cười hiền như đất cục. Ông Định bị dị tật từ hồi còn bé, một chân đi như người ta đứng đinh tấn, kéo lê chân sau như dài hơn, như không có xương bánh chè đầu gối nên thẳng cứng giống khúc củi; tay phải cầm xấp vé số, tay trái thả thõng thượt rung rung như người mắc bệnh kinh phong. Chiếc mũ nỉ trên đầu hình như mua đâu từ thời Bảo Đại mới chui ra khỏi bụng mẹ. Ông Định vẫn lê thân như thế với xấp vé số trên tay, với trang phục có vẻ lập dị như người tâm thần, suốt từ những quán ăn nhậu nhập nhòe tối sáng đến những sạp bán hàng ngoài chợ xã, những con hẽm bụi bùn nhiều hơn không khí. Có khi chỉ thấy ông nhìn đất, không biết có trời trên đầu. Có khi chỉ thấy ông nhìn trời, nào hay biết đất là gì. Có khi thấy ông gối đầu nằm nghỉ trên cỏ, dưới bóng cây ven đường. Người dân trong vùng không ai lạ gì về một ông Định với tư thế sống như vậy. Họ chỉ lạ một điều là sao không ai lo giúp ổng một chế độ trợ cấp xã hội nào đó, như chế độ nạn nhân chất độc da cam chẳng hạn. 
Buồn cười, vậy mà lý lịch nhân thân của ông đen thui như lọ nghẹ. Sau khi nước nhà thống nhất vào năm 1975, ông bị công an xã gọi lên tra hỏi và bắt viết bản tường thuật, kiểm điểm nhiều lần vì ông có tên trong danh sách đảng viên đảng Dân chủ của chính quyền cũ. Hóa ra ông Định làm CIA gì đó cho địch, dân làng ngớ ra, trố mắt nhìn nhau, số bênh vực, số thêu dệt thêm đủ sắc màu. Ông Định lúc đầu hoảng quá, da mặt tái xanh như lá chuối, sau lại cười hề hề: “À, tui biết rồi, rứa là tui bị ghi tên hồi mô không hay. Số là tui có làm liên gia trưởng một thời gian, chức vụ như ông đội trưởng đội sản xuất bây giờ đó mà. Chữ nghĩa chi mô mà làm, chỉ vì thanh niên bị vét ra chiến trường hết, còn lại thằng què này như không chó phải bắt mèo ăn cứt. Tui không làm gì có tội với bà con, xóm làng đâu”. Chính quyền xã lúc đầu còn hằm hè với ông dữ lắm, sau biết tỏng mọi việc xề xòa cười hòa nhau cả làng. Còn người dân trong xóm thì phán một câu đanh gọn như lời chửi đổng, chẳng biết là chửi ông trời hay ai đó: “Ác thiệt!”
Trước khi tôi đi xa chuyến này ông Định có gặp tôi khoe về con Chút: “Nó học cái gì, à trung cấp nghề. Xong, xin việc miết không được nên đành phải quay về cuốc đất lật cỏ với mẹ nó. Ai cũng nói thời đại ni cái bằng trung cấp chỉ để cho bò gặm, người ta đại học tràn tràn ra đó còn thất nghiệp. Bữa ni tui nói cho thầy giáo mừng, nó xin được việc rồi. Thỉnh thoảng có gửi tiền về cho gia đình. Việc chi không rõ, nghe nói cũng khổ cực lắm nhưng có được đồng ra đồng vào. Không như vợ chồng tui, đất ruộng nằm chềnh ềnh ra đó mà đồng tiền đi đâu vắng hoét, mỗi lần có đám đình là bí xở. Không lẽ mình hốt đất đi ăn giỗ hay mừng đám cưới nhà người ta. Thôi, ly nông ly hương gì đó vợ chồng tui cũng vui rồi, có nhắm mắt cũng thỏa mãn”. Nói những câu này, mắt ông Định sáng lạ lắm, tay trái vẫn rung rung như thường ngày nhưng trông lại giống đang vui nhịp khúc ngày mùa: “Ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng…”.
Bài học địa lý từ sách giáo khoa, rằng đồng bằng miền Trung dài và hẹp, đất xấu, nắng nứt đất, mưa rục lúa. Gia tộc ông Định vận dụng đã mười hai đời nông nghiệp mà vẫn không khá nổi. Đến đời con Chút khả năng mọi việc sẽ thay đổi, như thằng An đã bỏ quê từ hồi dang dở cấp 3, bây giờ trở thành sếp của một công ty trách nhiệm hữu hạn về địa ốc. Ai còn dám nói hắn là đứa cá biệt học không ra chữ, tuần nào cũng bị thầy cô phê bình dưới cờ? Ai dám nghĩ nó không biết ơn thầy cô khi chẳng chút đắn đo quẳng tiền như lá chiêu đãi thầy cũ từ A đến Z? “Tui nói cho thầy giáo mừng…”, tôi nên mừng hay nên buồn cho ông Định, thằng An, cho con Chút đang van khóc ngoài hành lang vì một lẽ đổi đời? Còn tôi, nên lột vứt đi cái bóng hay giữ nó lại như một kỷ vật, giống như ông Định thà chịu héo khô một đời như củ khoai cây lúa bị nắng hạn chứ nhất quyết không bỏ đất.  
- Mở cửa Thầy ơi!
Thằng An vừa nói vừa gõ cửa lộp cộp. Trông thấy bộ mặt lá héo của tôi, hắn tròn mắt: “Em xin lỗi thầy, vì phải có việc gấp với đối tác nên đã bỏ thầy một mình. Con nhỏ hồi nãy hình như biết thầy từ lúc bước vào khách sạn nên không dám tiếp. Em đã dàn xếp với chủ đổi một em khác cũng chân quê dễ thương lắm, thầy gặp là thích ngay. Em biết tính thầy mà!”. Tôi nhìn chăm vào đôi mắt thằng An và chợt nhận ra trong đó cái lém lỉnh của một đứa học trò cá biệt đã được thay bằng sự trải đời bao dung và chững chạc hơn, ít ra là lúc đang nói chuyện với tôi. Đến nỗi nào cứ như tôi nghĩ hắn đang chơi trò tặng con Thúy hoa khôi của lớp một gói kiến lửa bỏ trong bao ni-lông.
- Không, thầy không thấy hứng thú nữa, em đưa thầy về đi.
- Sao vậy, thầy! Hồi xưa thầy nổi tiếng là người có lập trường mà bây giờ lại thay đổi ý kiến xành xạch như thế. Lâu lắm em mới gặp lại thầy, không lo được cho thầy em thấy áy náy lắm.
Ông chủ khách sạn năm sao lùn tịt cúi chào lễ phép với lời xin lỗi lịch sự. Chiếc Cevic đời mới vèo ra khỏi khách sạn. Bên ngoài màn kính đục, phố buổi chiều đặc người xuôi ngược. Bên trong, ông Định đang băng qua cái hàng rào bằng gai tre khô và cỏ dại đi tắt vào nhà tôi. Chỉ một vài nhà trong xóm còn lại cái hàng rào gai tre như di tích một thời tàn của đời sống cộng đồng. Hầu như tất cả đều đã thay bằng hàng rào xây gạch, trụ xi măng, gắn lưới B40. Tôi nghiệm ra từ tín hiệu phố hóa ấy, người ta dần dần ít qua lại với nhau hơn, cổng nhà đóng kín nhiều hơn là sống cái thời bình “cửa thường bõ ngõ”. Con gà con chó cũng tuyệt nhiên không thể nào chui qua bốn bức tường gạch. Vợ tôi thấy người ta rầm rộ xây hàng rào cũng giục, hay ông tiết kiệm bớt khoản nào đó để xây luôn cho rồi. Tôi chần chừ vì mình và ông Định cũng nhờ còn lại được cái hàng rào không ra hàng rào ấy mà thân nhau hơn. “Thầy giáo ơi, con Chút nhà tui học hành tối dạ quá, trăm sự nhờ thầy giúp đỡ. Nói thiệt với thầy, vợ chồng tui chỉ có nó, kiếm được ít chữ nghĩa may ra nó còn được sướng hơn đời cha mẹ. Tui lê la than già khắp nơi vậy đó mà mỗi ngày có kiếm được bao nhiêu tiền đâu, còn mẹ nó thì dầm mưa dãi nắng suốt cũng không đủ tiền lo chuyện phải không với bà con xóm làng”. Dáng ông Định khi băng qua lối mòn tấp hờ gai tre vẫn như chân trước kéo theo chân sau nặng nề, đau khổ, thân hơi nghiêng về một bên, tay trái dài thỏng, rung rung, lúc như múa, lúc như đang lên cơn kinh phong.
-Thầy ơi, ngày mai thầy mới có công việc, chừ còn sớm quá về lại nhà khách phí thời gian lắm. Hay thầy cứ đi chơi tiếp với em đi, thầy muốn gì em chiều cả. Lâu lắm và cũng căn duyên lắm thầy trò mình mới có dịp gặp nhau nơi đất khách quê người đúng vào lúc em đang rảnh việc.
-Thôi, chơi như thế đủ rồi. Từ sáng đến giờ chứ đâu phải ít. Thầy nghe không khỏe trong người, về nghỉ sớm là tốt hơn.
-Thầy lúc nào vẫn vậy, khép mình mẫu mực quá mau già người thầy ơi. Tụi em hả, đã chơi là chơi cho đến bến, mới cảm thấy đời nhẹ nhàng, cuộc sống thoáng đãng. Từ chơi mà làm ra tiền thầy ạ. Thầy mà xả hết stress làm việc mới có hiệu quả.
Đến bến là tới đâu? Hình như tôi thích chơi với bóng mình hơn, nên sau đó trong căn phòng khách mà Sở Giáo dục tỉnh bạn bố trí, tôi với thằng Bồng lại tiếp tục đuổi bắt nhau bằng cách bơi sấp bơi ngửa theo gió, rồi lượn lờ theo mây. Nó chao về hướng Tây, tôi rẽ sang hướng Đông. Hai thằng lúc đầu còn cười vui như sáo tập nói, sau buồn chán tôi lại nhập vào nó thành một lắp ghép lạ đời. Nửa đầu tôi dính vào đầu nó hóa thành hình thù nửa quỷ nửa người. Một tay tôi thõng thượt, xoay tít như máy, chân phải thẳng đơ giống chân tay ông Định. Con Chút hiện ra với mái tóc khét nắng được nhuộm hoe vàng. “Không, em không phải là con Chút, em là Lan, Ngọc Lan”. “Đừng có mà dối trá, thầy đã nhận ra em rồi, bác đã nhận ra con rồi: đôi bàn chân nứt nẻ mùi bùn, màu da đất cát hở toang một vùng bụng và cái nốt ruồi ở má trái như giọt máu đen khô quánh. Lại tiếng khóc, tiếng van xin quen đến đau lòng ấy thì không thể nhầm lẫn vào đâu được. Cháu là con ông Định bên xóm chứ gì?”. Nghe đến đó con Chút bỗng khóc thét lên như đứa con nít bị quất roi mây vào mông, nước mắt chảy tràn ra từ đôi mắt ông Định. Rồi hai cha con ôm nhau cùng khóc. Thằng Bồng vẫn bình tâm như chưa hề xảy ra sự cố, còn tôi bỗng tan biến mất tiêu như hạt mưa vừa rơi phạch xuống nền sân đất.
Tôi nhớ lời ông Định kể về con gái mình, nó xấu xấu thinh thinh như thế nhưng được cái là có hiếu lắm. Nó quyết kiếm cho được thật nhiều tiền để tôi đừng đi bán vé số nữa, mẹ nó khỏi phải nướng thân trên nóng dưới nóng. Tui thì chỉ mong nó có chồng con cho rồi, xấu tốt gì đó lấy đại một thằng rồi lo làm ăn. Nhưng nó cứ lắc đầu, hồi mô đổi đời được, cha không còn lê cái thân dị tật ấy đi bán vé số khắp nơi con mới lấy chồng, không thì người ta sẽ khinh mình. Nghĩ cũng đúng thầy giáo hỉ, thời mô nghèo cũng khổ, cũng bị người ta khinh.
Ông Định, thằng An, thằng Bồng, Con Chút cứ theo tôi suốt cả chuyến tham quan không mấy thú vị. Ngày mai tôi lại phải đến lớp với học trò, với công việc quen như hằng ngày cầm đũa gắp thức ăn. Và cái mặt ngạo đời của thằng Bồng. Và cái bóng của tôi. Cố dỗ một giấc ngủ cho nhẹ đầu óc, nhưng bên kia tường rào bằng gạch tiếng nhạc mở quá cỡ vẫn oang oang: “Ta mơ một mái nhà tranh, ta mơ một túp lều tình, đời mình đẹp mãi với anh và em…”. Con Vàng bỗng giật mình sủa lên hai tiếng rồi im bặt. Ngồi dậy nhìn ra, tôi thấy con Vàng đang hướng mắt về phía nhà ông Định, ngoắc đuôi. Con Chút, đúng là con Chút. Nó xuất hiện hơi bất ngờ khiến tôi chưa kịp nghĩ là nên lùi vào trong bóng tối hay bước hẳn ra vùng sáng ngoài sân để tiếp nó.
-Con chào thầy!
Im lặng. Cả tôi và nó đều im lặng. Như nó đã nhận ra tôi từ lúc mới bước vào khách sạn năm sao và tôi đã nhận ra nó từ cái nốt ruồi và tiếng van khóc quen thuộc. Mỗi lần bị cha mẹ mắng mỏ nó vẫn thường hay van khóc như vậy. Sự im lặng rờn rợn như căn phòng được tắt hết ánh đèn. Tôi bước ra ngoài hiên còn héo hắt chút nắng cuối ngày. Nó bỗng quỳ xuống:
-Em van thầy, em xin thầy, thầy đừng nói với cha mẹ em…
Không phải tôi đang quỳ mà đôi chân tôi bỗng khuỵu xuống, như không chịu đựng nỗi sức đè của bóng mình. Hai tay cầm phấn hơn ba mươi năm trời mở ra đỡ lấy đôi bờ vai run run của con Chút. Nó khóc òa, tiếng khóc nửa người lớn, nửa đúng là của đứa con nít bị quất roi vô mông. Nước mắt giàn giụa. Bóng tôi mất tiêu trên nền sân gạch lỗ chỗ bóng lá. Buổi chiều nhão mềm như nước mắt.
                                                           
                                                           Tiêu Đình
  ( Tên thật  NGUYỄN ĐÌNH QUÝ    Hiện đang công tác tại Hội VHNT tỉnh Quảng Nam)
                                    


Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

284/ Thơ về Đại tướng

Bất tử!
             Kính viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp

 

Họa sĩ Nguyễn Minh vẽ chân dung
đại tướng  bằng 8800 bức ảnh tư liệu 

Thánh Gióng về trời, Thánh Giáp về quê.

Vì Dân - Nước, Người trở thành bất tử

Thành núi, thành mây thành ruộng, đồng, sông, bể…

Thành tượng hình chữ S trấn biển Đông

Thành đền thờ trong mỗi tấm lòng Dân

Thành ngọn đuốc soi đường đêm tăm tối

Thành mặt trời cho trần gian nắng mới

Thành mặt trăng vành vạnh tấm gương vàng

 

Người ba năm không nói không cười vươn vai thành Phù Đổng

Người cuối đời ẩn ánh sao Khuê trong tấc dạ trung thành

Nhẫn và Vinh đốn ngộ Vinh và Nhẫn

Trái tim hồng thành Xá lị, Kim đan

 

Người không nghĩ mình sẽ hóa thánh nhân

Khi nằm xuống cả non sông thương khóc

Cả non sông thành rồng chầu, hổ phục

Tôn vinh Người vị Thánh của lòng Dân

Bắn lên trời cao những tiếng sấm vang rền

Tiễn Người vào BẤT TỬ!

 

Nghe trái đất rùng mình thương nhớ

Hướng về Người lấp lánh giữa trời sao…

                                                   Hà Nội, 10.10.2013

                                                   Nguyễn Trọng Tạo

Lời ru Vĩ nhân!

             Kính tặng hương hồn vị Đại tướng của Nhân Dân !
À ơi...
Ông đã ngủ rồi
Sau khi thức suốt một đời trăm năm
Bao nhiêu biến cố thăng trầm
Nụ cười khuất những âm thầm nỗi đau...

À ơi...
Ông ngủ cho sâu
Non sông đang rủ một màu khăn tang
Tiếc thương như lửa thử vàng
Trái tim như ngọc lại càng sáng lên...

À ơi...
Ông ngủ cho yên
Giữa lòng đất mẹ một miền yêu thương
Ông về với lại quê hương
Nơi ông nghỉ, gió bốn phương tụ về...

À ơi...
Ông ngủ với quê         
Nén nhang con thắp, lời thề vẹn nguyên
Ru ông về với Cõi Tiên
Chẳng còn chi nữa lụy phiền thế gian...

Lời ru thương nhớ vô vàn
Một người văn võ song toàn...
VĨ NHÂN !!!
                                 Nguyễn Minh Tâm