Những năm 40 của thế kỉ XIX, nhiều lần Cao Bá Quát đã đặt
chân đến xứ Quảng. ông đến đây trong tình cảnh của một “trục khách” (người bị đuổi đi), một “trục thần” (bề tôi bị đày đi xa kinh đô). Có thể nói, những năm
tháng đầy dập vùi, cay đắng này đã để lại trong ông bao dư vị mặn chát về tình
đời, về thái độ phải lựa chọn giữa nhân dân và vương triều đương thời.
Xứ Quảng, nơi chưa hề
quen biết, vậy mà vẫn có duyên nợ với ông. Cao Bá Quát đã đi nhiều nơi. ông đến
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Côn Sơn vào Ninh Bình, Thanh Hóa, Hoàng Sơn, Huế. Nơi
nào đi qua cũng có thơ để lại. Những bài thơ mượn cảnh tả tình ấy đã cho thấy
một tâm hồn khoáng đạt, yêu tha thiết cảnh vật và con người của đất nước. Sau
này, bị phát vãng vào Đà Nẵng, xa nhà, xa quê hương, văn chương dang dở, Cao đã
gửi bao buồn vui ở những vần thơ viết trên đất Quảng.
Năm 1841, Triệu Trị
nguyên niên, vua có mở chiếu ân khoa, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường
thi Thừa Thiên. Do bụng liên tài, mến người giỏi, ông đã dùng muội đèn chữa cho
24 quyển thi. Việc ấy lộ ra ngoài, ông bị tống giam. Năm sau (1842), do cần những hàng tiêu dùng của người Âu,
triều đình Huế cử số quan chức có tội ra nước ngoài làm công việc mua bán. Nhân
đó, Cao Bá Quát được rời Huế vào Đà Nẵng, sung vào đoàn của Đào Trí Phú đi Indonesia,
Singapore .
Cuối hè 1843, thuyền về lại Đà Nẵng. It lâu sau, Cao về kinh. Tưởng được bổ
dụng lại, không ngờ lần đó ông bị thải về quê.
Cuối đời Thiệu Trị (1847), ông được mời vào Huế, làm ở Viện Hàn lâm, giữ
công việc biên tập thơ ca. Được một thời gian, Cao được giao đi công cán một số
tỉnh Nam Trung Bộ. Thực chất, chuyến đi cũng là một kiểu đi đày. Và, đây là lần
thứ hai, Cao đến xứ Quảng.
Qua những lần như thế,
Cao Bá Quát viết một số bài thơ liên
quan đến đất và người xứ Quảng. Chưa có tài liệu lịch sử nào xác nhận về những
nơi ông đến, những người gặp ông, chỉ căn cứ vào địa danh và tên gọi trong thơ,
đời sau hiểu rằng, đất Quảng đã không ít lần được Cao Bá Quát đề cập đến, cả
vui lẫn buồn.
Cuối năm Nhâm Dần (1842).
Cao Bá Quát đến Đà Nẵng. Trong bài thơ Phát vãng dương trình chu hành phó Đà Nẵng, tẩu bút lưu thân
thức (1) [1]
Cao
viết :
Đà Giang dao vọng nhật
đông biên
Đảo dữ,
thương mang lô kì thiên
Tử khuyết
vân yên thường ngọ mộng
Thiên nhai
cầm kiếm thị đinh niên
Dịch
nghĩa :
Bể Đà Nẵng xa trong ở về phía đông
Đảo cồn muôn
lớp sóng đường đi nghìn trùng.
Mây khói
kinh thành, ban trưa thường nằm mộng
Việc cần
kiếm ở bên trời, chính là lúc trai tráng này.
Đọc qua những vần thơ như
thế, điều dễ thấy là, giữa lúc thân tù ngục, lòng đầy ngổn ngang, tâm sự chỉ
biết hỏi trời, được xa Huế vào Đà Nẵng, tâm hồn ông đã dậy lên bao niềm vui
phơi phới. Đây cũng là điều dễ hiểu. Bởi lẽ, trong ông, chất nho sĩ tích cực
vẫn còn, vẫn muốn “Thiên nhai cầm kiếm thị
đinh niên”. Song, cảm xúc ấy chỉ là nhất thời. Cái con người ưu thời, mang
nhiều tâm sự bi thương vẫn là cái chính, chiếm lĩnh sâu sắc nơi tâm hồn ông.
Ở bài Châu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân ký
biệt tòng du chư đệ tử (Thuyền xuôi Thanh Khê, nhân có người quen, gửi lời
từ biệt các học trò), Cao nói đến nỗi ngậm ngùi, quyến luyến trong buổi chia
tay, Phía kia đèo Hải Vân
không còn xa mấy, nơi này “Núi Ngũ Hành
chỉ còn gang tấc”, thấy mây bay lững lờ, chỉ còn một mảnh trăng “nhất phiến nguyệt”, cứ đêm đêm soi hoài
trên dòng sông bạc. Thơ chứa chan một nỗi niềm ngán ngẫm, pha chút u hoài.
Bài “Tức sự” nói lên cảnh tình
đau xót, sức hèn tóc bạc, làm thân đi thủ, Mây trời, sông nước Đà Nẵng cũng
được nhìn dưới góc độ của một “trục thần”.
Hai câu thơ cuối, Cao viết :
Tiếu khan Đà hải thủy
Ba lãng bão tri tân.
Dịch
nghĩa : Cười nhìn trước cửa bể Đà
Nẵng.
Những sóng cùng gió đã làm
cho ta càng biết được bờ bến nhiều hơn.
Ở bài thơ Lưu viện du nguyệt, văn đắc tái phát Đà
Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm (Ở viện hơn một tháng, được tin lại
phải tái phát đi Đà Nẵng, đêm ấy cùng ông Vũ Hoài Phủ uống rượu thực say),
trong cảnh ngộ tái phát phối, đêm ông cùng bạn uống rượu và bày tỏ nỗi niềm cho
nhau. ông nhìn cuộc đời mình, thấy con đường trở về quê xa lăng lắc, văn chương
cũng chẳng giúp gì cho thân thế. Xa kia, mây
núi của Đà Nẵng đã cảm thấy hơi thu đến gần (Đà tấn vân sơn tiệm giác thu),
lòng như Lý Bạch tiễn Vương Xương Linh bị giáng
chức đi Long Tiêu. Mượn sự tích Ngũ Khê và Dạ Lang, Cao Bá Quát muốn qua đây giãi
bày tâm sự sắp đi đày của mình :
Một
tấm lòng sầu chờ bác gửi
Năm
khe thuyền Dạ bóng trăng đưa
(Xuân Trang dịch)
Một lần đến Hội An,
gặp người hát cũ của thành Nam, lìa xứ, phiêu dạt vào nam, nỗi lòng cũng cô
đơn, trơ trọi như mình, Cao Bá Quát viết bài thơ Du Hội An phùng Vị thành ca giả (Chơi phố Hội An, gặp người đào hát
thành Vị). Cung bậc bài thơ có chút gì như tâm sự của Nguyễn Du gặp lại người
ca kỹ cũ trong Long thành cầm giả ca.
Nguyễn Du đã kết thúc bài thơ bằng những câu nghe ai oán, ngấn đầy nước mắt :
Ngán trăm năm thì giờ chớp mắt
Lệ
thương tâm ướt vạt áo là
Nam
về đầu bạc ngẫm ta
Trách
gì hương phấn bông hoa chẳng tàn
Trừng
trừng đôi mắt mơ màng
Quen
mà hóa lạ nghĩ càng thêm thương (1)
(Hoàng Tạo dịch)
Ở Cao, tâm trạng có khác, song cũng không kém phần bi
ai. Đêm gặp nhau, dưới ánh trăng tà, giữa nơi quê người đất khách, biết lấy gì
san sẻ, nếu không mượn tiếng đàn tiếng sáo. Ngoài kia, có một quê hương nhưng
khuất nẻo. Gió vi vút như gọi về, nỗi buồn như lan trên từng tiếng trúc, tiếng
ti. Tâm sự tỏ bày, bình rượu vẫn còn sao nước mắt cạn, ép hoài chẳng chảy.
Trong tận cùng nỗi cô đơn ấy, thôi thì hát cho nhau
trọn khúc, giải nỗi sầu nhân thế :
Trúc tơ đêm trăng này
Đất nước mấy thu cách
Lệ cạn rượu còn đầy
Đèn còn lòng nỡ tắt
Bạn bè lưa thưa dần
Tiếc nhau gì khúc hát…
(Hoàng Tạo dịch)
Âm vang bài thơ là nỗi
buồn, nỗi buồn xa xứ và nỗi buồn thân phận. Có thể nói, trong các bài thơ đề
cập đến xứ Quảng, bài Du Hội An phùng Vị
thành ca giả là một bài thơ tê tái, đầy thương cảm. Chắc hẳn là, trong lần
tao ngộ đó, trong ông đã thức dậy không ít nỗi niềm da diết và khắc khoải.
Người gặp và kẻ được gặp, ai tâm trạng hơn ai, không biết. Chỉ thấy rằng, tiếng
thơ là tiếng lòng của một nhà thơ đầy tình nhân đạo.
Và, nơi một bài thơ khác,
bài Dữ Quảng Nam học chính Bùi đồng túc
dạ khởi kiến nguyệt (Nằm cùng với ông đốc học Quảng Nam họ Bùi đang đêm trở
dậy thấy trăng) lại cho thấy một Cao Bá Quát gắn lòng mình với cảnh trí thiên
nhiên. Thiên nhiên ở đây là xứ Quảng. Gặp lại trăng sáng như gặp người bạn cũ,
đang đêm trở dậy muốn mình như Tổ Địch, Lý Bạch, nhưng rốt cuộc phải quay về
với chính mình, với ấm chè, mồi thuốc thức đợi mặt trời lên. Bài thơ cũng là
một tâm sự.
Nhìn chung, trong những
năm tháng không vui của đời mình, Cao Bá Quát đã đến với đất Quảng. Chắc rằng,
vùng đất ấy đã chia ngọt sẻ bùi với ông không ít. Có vậy, ông mới có những vần
thơ để lại. Tiếc là, đến nay chưa ai sưu tập đầy đủ những bài thơ của ông đã
viết về con người và vùng đất Quảng Nam này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét