Trong
văn học Việt Nam
đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kì,
song được tôn vinh ” thiên cổ kì bút ” thì đến nay chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục
của Nguyễn Dữ.
Trong tập truyện ấy, tác
phẩm Chuyện người con gái Nam Xương được
xem như đặc sắc nhất vì đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa.
Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc
niềm cảm thương sâu sắc. Vũ Nương, một thiếu phụ đức hạnh vẹn toàn phải chịu
nỗi oan khuất đành phải chọn cái chết để giải tỏ.
Tóm tắt
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ
Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam . Vốn là một người vợ đoan
chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ
trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ
của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không
thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì cảnh ngộ của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long
Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ
Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Vẻ đẹp tâm hồn Vũ Nương :
Tác
giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những
phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ.
-Vũ
Nương vốn là người con gái có tư dung
tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn cư xử đúng mực giữ gìn khuôn phép, không để
vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen.
- Khi
chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượi đầy tiễn
chồng đằm thắm thiết tha. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu
thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng
trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được
đoàn tụ ... làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
- Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba
năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy
bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể
nào ngăn được”.
- Hơn
nữa, nàng là một người con dâu hiếu
kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua
đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình)
-
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng
bị nghi oan. Trong những lúcgiận dữ nhất lời lẽ của nàng luôn dịu dàng ,tình
cảm không hề nặng lời .Vũ Nương đã phân
trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó ... mong chàng
đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ
chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia
đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch,
Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương bày tỏ thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng
... đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao
khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ
chồng giờ đây hoá đá....
-Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất
tày trời không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ
tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm
thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin
làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá,
lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ
và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ...” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc
xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan
tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
- Sau
một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, và nói câu “ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam,cảm vì nỗi ấy tôi tất sẽ tìm về có ngày ” rồi hiện về trên dòng nước cho
thoả lòng nhớ chồng, con.
=>
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ
Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam - một người phụ nữ đẹp người, lại nết
na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng
chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, .... lẽ ra
phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Bi kịch Vũ Nương:
- Cái chết của Vũ Nương có nhiều
nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt
ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân
phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm
khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
- Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
- Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến...”
- Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
- Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến...”
- Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của
Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai
những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không
chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi
nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan
nghiệt của Vũ Nương.
- Hành động gieo mình xuống sông
Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một
thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc
chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và
chịu nhiều khổ đau, bất hạnh.
Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện
thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam xương, còn bao
nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều
trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của
Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,
Vài
nét nghệ thuật:
-
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán,
Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt
nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của
nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
-“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.
-“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.
-“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái
bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan
khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
-Truyện có những đoạn đối thoại và những lời
tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh
động, góp phần khắc hoạ diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói
của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng
trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí,
có tình - lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn
nhiên, ngây thơ, thật thà.
-Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích đưa vào những yếu tố có tình li kì để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
-Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích đưa vào những yếu tố có tình li kì để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là
thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương
với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn
trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được..Kết thúc truyện rất
sáng tạo ,lung linh tính bi kịch của truyện
Thật không ngoa khi nói rằng “
Chuyện người con gái Nam Xương” chính là một áng “thiên cổ kì bút” . Từ một
chiếc bóng oan nghiệt, tác phẩm thấm dẫm cảm hứng nhân văn, mở ra trước mắt
người đọc biết bao điều sâu rộng về tình nghĩa vợ chồng- về quan hệ giữa người
với người. Cũng qua đó tác phẩm giúp người đọc nhận thấy được nhiều mặt của
cuộc sống đương thời rằng vẫn còn nhiều Trương Sinh vơi đầu óc nam quyền độc
đoán được sinh ra từu xã hội phong kiến suy tàn và những Vũ Nương đẹp cả về
hình dáng, phẩm giá lẫn tâm hồn nhưng lại không bảo vệ được mình bởi những thế
lực tàn ác. Có lẽ cũng vì vậy mà Nguyễn
Du đã viết nên “lời chung” cho bao người phụ nữ đương thời, rằng:
Đau
đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Sưu tầm tổng hợp
Bích Trâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét