Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

280/ NGAN NGÁT VỊ QUÊ


Mộc Nhân – Lê Đức Thịnh
                        Về tập thơ "Trăng vẫn sáng" của Đỗ Thị Kết
                               Nhà xuất bản Văn Học - 2014

Trong dòng chảy đa diện của thi ca Đất Quảng, chợt nhận ra một giọng thơ dung dị, không cầu kì tung hứng chữ nghĩa, không mật ngôn ẩn ngữ mà có sức lay động lòng người, ngời lên từng con chữ bình dị, tròn ý đầy tình: thơ Đỗ Thị Kết.
          Tôi biết cô Đỗ Thị Kết từ rất lâu, là một đồng nghiệp, một đàn chị, một bạn thơ nên đôi khi được cô chia sẻ những trang viết. Nguồn cảm xúc thơ Đỗ Thị Kết khởi hành từ cuộc sống thật của chính mình; đọc và hiểu được nơi trú ngụ đằng sau mỗi con chữ của Đỗ Thị Kết là những trầm mặc chuyện đời, chuyện nghề, chuyện quê hương, những số phận… để rồi những nét vẽ của ngôn từ trong thơ Đỗ Thị Kết đã tạo nên những bức tranh sinh động đủ sắc màu ấm lạnh.

          Chiều dài tháng năm của nghề dạy học, chiều sâu minh triết của một người thấm nhuần lẽ đạo trong những biến chuyển trầm phù của đời sống không giới hạn đã tạo nên một bút lực ở Đỗ Thị Kết.

          Ở Đỗ Thị Kết, dạy học không chỉ là một nghề mà còn là cái nghiệp –  không chỉ là nỗi đau đáu với những bài giảng mà còn là những xót thương khi nhận ra “Ô bỏ trống” đâu dễ nói về một thân phận học trò: “Có một ô trống/ Cha em là ai/ Chết hay còn sống/ Mẹ em/ Cô nhận ra rồi…/ Ô trống kia/ Làm sao điền như con toán/ Dáng người cha/ Em có tưởng tượng bao giờ ?”  (Ô bỏ trống).
          Từ những thấu hiểu về chuyện đời trong chuyện nghề mà niềm vui của Đỗ Thị Kết là “ánh mắt ngỡ ngàng, cảm giác bàng hoàng/ náo nức, bồi hồi, mong đợi” khi bắt gặp “Hạnh phúc trong tôi qua từng đôi mắt ấy/ Những đôi mắt như bao đôi mắt vậy/ Mà ánh nhìn làm mát cả tâm can/ Khi em cười khôn ngăn những âm vang” (Đôi mắt). 
          Mảng đề tài quê hương trong thơ Đỗ Thị Kết là hồi ức đẹp có buồn vui với giai điệu thơ khi trầm lắng, khi trào dâng về hình ảnh người mẹ: “Tàu cau/ Trước ngõ/ Hương trong gió/ Bóng mẹ già/ Lom khom nhặt/ Chuốt từng sợi khô/ Cặm cụi bao ngày/ Chổi cau / Mẹ quét/ Mo cau/ Chiếc gàu/ Nghiêng/ Nghiêng / Lật/ Lật/ Sợi dây dừa/ Giếng nước đầu thôn/ Hương quê/ Day dứt/ Bồn chồn!” (Hương quê); có khi chắt lọc, gọt giũa và chạm khắc về người cha trong nhịp “đều đặn vòng quay… lại trở, lại xoay”: “Lại một giấc mơ/ Ngôi nhà thân yêu/ Bên lò lửa/ Cha miệt mài / Từng vá bột/ Đều đặn vòng quay/ Bánh nóng dẻo / Trắng màu gạo trắng/ Lại trở, Lại xoay…” (Ngan ngát vị quê)
          Hình ảnh làng quê trong thơ Đỗ Thị Kết hiện lên hiền lành, lặng lẽ trong biển đời mênh mông sóng động: Chiếc bánh/ Cái quạt nan/ Nồi than rực đỏ/ Vuờn cải/ Vại tương trước sân/ Cây xoan đầu ngõ…” để rồi tất cả làm nên “Ngan ngát/ Sớm. Chiều/ Mùi. Vị/ Quê hương.” (Ngan ngát vị quê)
          Trong nhiều khoảnh khắc như thiền tịnh, Đỗ Thị Kết đã tìm về góc vườn dịu êm, cộng hưởng với đất trời trong niềm vui dung dị mà thành cõi bình yên, hòa ái: “Hàng cau/ Chừ đã vươn cao/ Mẹ ơi/ Mơ ước thuở nào/ Giờ đây…./ Nắng soi rực rỡ vườn cây/ Hồng kia đỏ thắm/ Mai này vàng tươi/ Ngàn hoa khoe sắc/ Nhớ Người/ Nhớ mùa xuân/ Nhớ nụ cười thương yêu” (Giá mà có mẹ).
          Bỗng dưng nghĩ đến tên tập thơ của Đỗ Thị Kết - “Trăng vẫn sáng” – tập thơ chắt lọc một đời cầm bút giữa cuộc phù sinh mà nhận ra một điều: giữa cái gần và rất xa  trong ánh trăng tưởng như mơ mộng ấy là một tình yêu không bao giờ vơi cạn không chỉ dành riêng cho cha mẹ, người thân, cho đàn em nhỏ mà còn dành cho đất đai, thanh âm mà Đỗ Thị Kết đã từng sống, từng nghe trong  mạch ngầm quê hương: “Mười năm/ Vẫn một màu trăng/ Mười năm/ Mà cứ ngỡ rằng/ hôm qua…/ Không gian vời vợi bao la/ Hàng tre soi bóng, Vu Gia lững lờ/ Vẫn con đường/ Thắm ước mơ/ Tiếng cười trong trẻo bây giờ còn vang/ Mênh mông trăng/ Rộn xóm làng/ Đường thơm hương lúa/ Thênh thang gió đồi/ Rất gần lại rất xa xôi/ Rừng xanh có nhớ khoảng trời ta qua » (Suối xưa còn vọng?).
          Những trang thơ Đỗ Thị Kết nếu nhìn ở góc độ nào đó có thể xem như những dòng nhật ký. Có khi ghi trong khoảnh khắc thiêng liêng: “Phút giao thừa/ Bao lời chúc phúc/ Thật giản đơn/ Thoáng chút ngỡ ngàng/ Giao thoa đất trời/ Muôn vật hân hoan/ Thanh âm rộn ràng / Niềm vui tất bật/ Thời điểm thiêng liêng / Không gian rất thật/ Có khoảnh khắc nào / Như thực/ Như mơ !”(Khoảnh khắc); hay lúc chật vật ngày lũ mà Chiêm bao/ Cơn lũ lại về…/ Cõng mẹ tìm nơi trú ngụ/ Con nghe bao nỗi bời bời/ Ngồi đó chờ con mẹ nhé/ Ra ngoài hứng giọt mưa rơi…” (Chiêm bao); hay để thổ lộ những trăn trở của mình về lẽ nhân sinh: “Tìm đâu/ Số phận/ Cuộc đời/ Trăng thơ/ Nhũng phù phiếm/ Vu vơ/ Vinh quang/ Cay đắng/ Một giấc mơ/ Dây oan đeo đẳng/ Cơm áo/ Nghĩa tình/ Vấn vuơng/ Thầm lặng/ Bao ngả đường/ Lối rẽ về đâu?” (Lối rẽ về đâu);nhưng cũng có lúc rạng ngời mùa xuân: “Đã nghe xuân đến rộn ràng/ Đã nghe muôn vật hân hoan đón chào/ Xuân nay hay những xuân nào/ Mai vàng vẫn nét thanh tao ngàn đời/ Hoa xuân khoe sắc gọi mời/ Hương xuân hương của đất trời giao thoa”(Xuân).
          Điều đáng trân trọng nhất là thơ Thơ Đỗ Thị Kết giản dị, thân thiết với muôn nẻo đời thường, chưa bao giờ cần đến sự trang điểm hay cầu kì chữ nghĩa mà vẫn tạo nên một thế giới tinh thần khác biệt, thuần khiết, thanh tân.
          Có lẽ đó là dấu ấn, là nét riêng của thơ Đỗ Thị Kết còn đọng lại trong cảm nhận của bạn đọc – một thế giới nghệ thuật “Ngan ngát vị quê”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét