Như
chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện đại đều
nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy-học hoặc nhấn mạnh lên mặt
nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Cho dù các phương pháp thể hiện hiệu
quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học và người dạy
chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp giảng dạy nào được
cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểmcủa nó do vậy người thầy
nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của
vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công
cụ dạy-học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình.
Trong
xu thế đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo hướng lấy người học làm trung
tâm, phương pháp dạy học dựa trên vấn đề (DHDTVĐ—Problem-Based Learning) đang
được các nền giáo dục đại học ở nhiều nước quan tâm nghiên cứu và ứng dụng. Mặc
dù đã ra đời từ những năm 60 của thế kỷ trước, cho đến nay phương pháp này vẫn
thu hút được sự quan tâm của những nhà nghiên cứu giáo dục.
Có nhiều quan niệm cũng như tên
gọi khác nhau đối với dạy học giải quyết vấn đề như dạy học nêu vấn đề, dạy học
nhận biết và giải quyết vấn đề v.v. Mục tiêu cơ bản của dạy học giải quyết vấn
đề nhằm rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề, tất nhiên trong đó cần bao gồm
khả năng nhận biết, phát hiện vấn đề. Dạy học giải quyết vấn đề không phải là
một phương pháp dạy học cụ thể mà là một quan điểm dạy học.
1. Vấn đề là bối cảnh trung tâm
của hoạt động dạy và học
Có
thể nói rằng phương pháp DHDTVĐ đảo lộn thứ tự của hoạt động dạy học nếu so với
các phương pháp truyền thống ở đó thông tin được giáo viên (GV) trình bày từ
thấp đến cao theo một trình tự nhất định, và học viên (HV) sẽ chỉ được tiếp cận
với một vấn đề cần được lý giải (nếu có) một khi họ đã được trang bị đầy đủ
những kiến thức cần thiết. Trong phương pháp DHDTVĐ, HV được tiếp cận
với vấn đề ngay ở giai đoạn đầu của một đơn vị bài giảng. Vấn
đề có thể là một hiện tượng của tự nhiên hoặc là một sự kiện/tình huống
đã, đang hoặc có thể sẽ diễn ra trong thực tế và chứa đựng những điều cần được
lý giải.
2- Các đặc trưng của một vấn đề hay
Thực
tế đã chỉ ra là có rất nhiều kiểu vấn đề, chủ đề có thể lựa chọn. Điều này phụ
thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, từng cách xây dựng vấn đề và các hoạt động đề
ra cho người học. Tuy nhiên, đặc trưng bề nổi của một vấn đề thì không bao giờ
rời xa nhu cầu của người học (nhu cầu về nhận thức, lĩnh hội kiến thức,..) cũng
như không bao giờ xa rời mục tiêu học tập. Dưới đây là một vài cách xây dựng
vấn đề có hiệu quả:
- Xây dựng vấn đề dựa vào kiến thức
có liên quan đến bài học. Toàn bộ bài giảng được xây dựng dưới dạng vấn đề sẽ
kích thích tính tò mò và sự hứng thú của người học. Tính phức tạp hay đơn giản
của vấn đề luôn luôn là yếu tố cần được xem xét.
- Xây dựng vấn đề dựa trên các tiêu
chí thường xuyên biến đổi trong công việc, nghề nghiệp,..
- Vấn đề phải được xây dựng xung
quanh một tình huống (một sự việc, hiện tượng,…) có thực trong cuộc sống. Vấn
đề cần phải được xây dựng một cách cụ thể và có tính chất vấn. Hơn nữa, vấn đề
đặt ra phải dễ cho người học diễn đạt và triển khai các hoạt động liên quan.
Một vấn đề hay là một vấn đề không quá phức tạp cũng không quá đơn giản. Cuối
cùng là cách thể hiện vấn đề và cách tiến hành giải quyết vấn đề phải đa dạng.
Vấn đề đặt ra cần phải có nhiều tài
liệu tham khảo nhưng trọng tâm nhằm giúp người học có thể tự tìm tài liệu, tự
khai thác thông tin và tự trau dồi kiến thức; các phương tiện thông tin đại
chúng như sách vở, băng cát sét, phần mềm mô phỏng, internet,… cũng cần phải đa
dạng nhằm phục vụ mục đích trên.
3. HV tự tìm tòi để xác định những
nguồn thông tin giúp giải quyết vấn đề.
Trên cơ sở vấn đề được nêu ra, chính
HV phải chủ động tìm kiếm thông tin thích hợp để giải quyết vấn đề. Thông tin
có thể ở nhiều dạng và từ nhiều nguồn khác nhau (sách, báo, phim, ảnh, từ
internet…). Nói cách khác, chính người học phải tự trang bị cho mình phần “lý
thuyết” nhằm có đủ kiến thức để tiếp cận và giải quyết vấn đề.
4. Thảo luận nhóm là hoạt động cốt
lõi.
Mặc
dù phương pháp có thể được áp dụng cho riêng từng HV, trong đa số các ứng dụng
người ta thường kết hợp với hoạt động nhóm. Thông qua thảo luận ở nhóm nhỏ, HV
chia sẽ nguồn thông tin và cùng nhau hình thành các giả thuyết giúp giải quyết
vấn đề, kiểm tra giả thuyết và đi đến kết luận. Nhờ hoạt động nhóm, HV được rèn
luyện thêm các kỹ năng cần thiết khác ngoài mục đích lĩnh hội kiến thức.
5. Vai trò của giáo viên mang tính hỗ
trợ.
Giáo viên đóng vai trò định hướng
(chỉ ra những điều cần được lý giải của vấn đề), trợ giúp (chỉ ra nguồn thông
tin, giải đáp thắc mắc,…), đánh giá (kiểm tra các giả thuyết và kết luận của
HV), hệ thống hóa kiến thức, khái quát hóa các kết luận.
II. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC THEO PHƯƠNG
PHÁP DHDTVĐ
Trình tự tổ chức giảng dạy theo phương
pháp DHDTVĐ có thể được khái quát qua các bước sau:
1. Giáo viên xây dựng vấn đề, các
câu hỏi chính cần nghiên cứu, các nguồn tài liệu tham khảo
2. Tổ chức lớp học để nghiên cứu vấn
đề: chia nhóm, giao vấn đề, thống nhất các qui định về thời gian, phân công,
trình bày, đánh giá,...
3. Các nhóm tổ chức nghiên cứu,
thảo luận nhằm trả lời các câu hỏi của vấn đề
4. Tổ chức báo cáo và đánh giá: các
nhóm trình bày kết quả nghiên cứu, giảng viên tổ chức đánh giá
Việc
cụ thể hóa các bước nói trên phụ thuộc rất lớn vào năng lực, tính tích cực của
HV (và đôi khi của cả giáo viên) và các điều kiện học tập, giảng dạy hiện hữu
(tài liệu, trang thiết bị, nơi thảo luận, trợ giảng,...).
III. TÁC DỤNG TÍCH CỰC VÀ NHỮNG MẶT HẠN
CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP DHDTVĐ
1.
Những tác dụng tích cực:
Thứ nhất, phát huy tính tích cực,
chủ động trong học tập.
Vì
phương pháp DHDTVĐ dựa trên cơ sở tâm lý kích thích hoạt động nhận thức bởi sự
tò mò và ham hiểu biết cho nên thái độ học tập của HV mang nhiều yếu tố tích
cực. Năng lực tư duy của HV một khi được khơi dậy sẽ giúp họ cảm thấy thích thú
và trở nên tự giác hơn trên con đường tìm kiếm tri thức.
Thứ
hai, học viên được rèn luyện các kỹ năng cần thiết.
Thông qua hoạt động tìm kiếm thông
tin và lý giải vấn đề của cá nhân và tập thể, HV được rèn luyện thói quen/kỹ
năng đọc tài liệu, phương pháp tư duy khoa học, tranh luận khoa học, làm việc
tập thể… Đây là những kỹ năng rất quan trọng cho HV đối với công việc sau này
của họ.
Thứ ba, học viên được sớm tiếp cận
những vấn đề thực tiễn.
Giáo
dục đại học thường bị phê phán là xa rời thực tiễn. Phương pháp này có thể giúp
HV tiếp cận sớm với những vấn đề đang diễn ra trong thực tế có liên quan chặt
chẽ với chuyên ngành đang học; đồng thời họ cũng được trang bị những kiến thức,
kỹ năng để giải quyết những vấn đề đó.
Thứ
tư, bài học được tiếp thu vừa rộng vừa sâu, được lưu giữ lâu trong trí nhớ HV.
Do được chủ động tìm kiếm kiến thức
và vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, HV có thể nắm bắt bài học một cách
sâu sắc và vì vậy họ nhớ bài rất lâu so với trường hợp tiếp nhận thông tin một
cách thụ động thông qua nghe giảng thuần túy.
Thứ năm, đòi hỏi giáo viên không
ngừng vươn lên
Việc
điều chỉnh vai trò của giáo viên từ vị trí trung tâm sang hỗ trợ cho hoạt động
học tập đòi hỏi nhiều nỗ lực từ phía giáo viên. Đồng thời theo phương pháp này,
giáo viên cần tìm tòi, xây dựng những vấn đề vừa lý thú vừa phù hợp với môn học
và thời gian cho phép; biết cách xử lý khéo léo những tình huống diễn ra trong
thảo luận… Có thể nói rằng phương pháp DHDTVĐ tạo môi trường giúp giáo viên
không ngừng tự nâng cao trình độ và các kỹ năng sư phạm tích cực.
2. Những mặt hạn chế.
Thứ nhất, khó vận dụng ở những môn học
có tính trừu tượng cao
Phương pháp này không cho kết quả
như nhau đối với tất cả các môn học, mặc dù nó có thể được áp dụng một cách
rộng rãi. Thực tế cho thấy những môn học gắn bó càng nhiều với thực tiễn thì
càng dễ xây dựng vấn đề, và vì vậy khả năng ứng dụng của phương pháp càng cao.
Thứ hai, khó vận dụng cho lớp đông
Lớp càng đông thì càng có nhiều
nhóm nhỏ vì vậy việc tổ chức, quản lý sẽ càng phức tạp. Một giáo viên rất khó
theo dõi và hướng dẫn thảo luận cho cả chục nhóm HV. Trong trường hợp này, vai
trò trợ giảng sẽ rất cần thiết.
IV. ỨNG DỤNG CHO LỚP ĐÔNG - MỘT SỐ GỢI
Ý
Sau đây là một số gợi ý vắn tắt
dành cho gáo viên muốn ứng dụng phương pháp DHDTVĐ cho những lớp có đông học
viên:
1. Tìm vấn đề: từ các phương
tiện thông tin đại chúng, thực tế sản xuất và đời sống, những hiện tượng tự
nhiên/xã hội đã và đang diễn ra hàng ngày… Giáo viên cũng có thể sáng tạo ra
những vấn đề miễn sao chúng chứa đựng những yếu tố gần gũi với thực tế, phù hợp
với môn học, và có khả năng thu hút sự quan tâm của HV.
2. Dự kiến thời gian hợp lý: bao
nhiêu vấn đề cho môn học, tỷ trọng thời gian…
3. Chuẩn bị tốt tư tưởng cho
HV: lớp học không phải là nơi để thu lượm kiến thức một cách thụ động và
người học cần được chuẩn bị những kỹ năng cần thiết cho tương lai nghề nghiệp
về sau.
4. Chuẩn bị tốt khâu tài liệu tham
khảo: nên chuẩn bị trước một số tài liệu tham khảo cơ bản, hướng dẫn HV
các nguồn tài liệu có thể có (thư viện, sách báo, internet,…)
5. Chuẩn bị tốt khâu tổ chức: bao
nhiêu nhóm, mỗi nhóm bao nhiêu HV? Địa điểm thảo luận? Cần bao nhiêu GV hỗ
trợ?…
6. Những biện pháp bổ trợ: làm thế
nào để hạn chế HV vắng mặt? Làm thế nào để HV tích cực tham gia? (cho điểm
thưởng, treo giải thưởng?)…
Phương pháp DHDTVĐ rất thích hợp
dùng cho giảng dạy đại học. Trên thực tế nhiều trường, nhiều giáo viên khi vận
dụng phương pháp này đã có hiệu quả giảng dạy tích cực, chất lượng bài giảng
được nâng lên, học sinh, sinh viên hứng thú với môn học hơn. Đúng như một nhà
giáo dục đã nói “Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là
thắp sáng niềm tin”(W. B. Yeats).
NHẬT QUANG (tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét